Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lễ Húy Nhật lần thứ 17 Sư Bà Tọa Chủ Chùa Đức Viên

21/03/201608:38(Xem: 8160)
Lễ Húy Nhật lần thứ 17 Sư Bà Tọa Chủ Chùa Đức Viên
Le Huy Nhat lan 17 Su Ba Dam Luu (3)

LỄ HÚY NHẬT LẦN THỨ 17
SƯ BÀ TỌA CHỦ CHÙA ĐỨC VIÊN,
THÀNH PHỐ SAN JOSE, HOA KỲ
 
Tin và ảnh: Võ Văn Tường



Le Huy Nhat lan 17 Su Ba Dam Luu (1)Le Huy Nhat lan 17 Su Ba Dam Luu (2)Le Huy Nhat lan 17 Su Ba Dam Luu (3)Le Huy Nhat lan 17 Su Ba Dam Luu (43)Le Huy Nhat lan 17 Su Ba Dam Luu (66)Le Huy Nhat lan 17 Su Ba Dam Luu (67)

 

Chùa Đức Viên được Sư Bà Đàm Lựu sáng lập vào năm 1980. Sư Bà người làng Tam xá, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, Việt Nam. Xuất gia từ nhỏ tại chùa Cự Đà, năm 1951, Sư Bà thọ giới Tỳ kheo ni tại chùa Quán Sứ, Hà Nội. Năm 1952, Sư Bà học đạo tại chùa Dược Sư, Sài Gòn. Năm 1964, Sư Bà đi du học ở Tây Đức. Năm 1979, Sư Bà đến Hoa Kỳ. Năm 1980, Sư Bà về thành phố San Jose hành đạo và sáng lập chùa Đức Viên. Sau 19 năm tận tụy, chăm lo việc đạo, việc đời, Sư Bà quy Tây năm 1999. Việc tiếp tục kiến tạo ngôi già lam trang nghiêm, an tịnh, nổi tiếng được các Ni sư Đàm Nhật, Ni sư Đức Hòa cùng Ni chúng và quý Phật tử tín tâm thực hiện trong nhiều năm qua.

 

Ghi nhớ ân đức khai nguyên, hóa độ của Sư Bà, chùa Đức Viên đã tổ chức khóa “Niệm Phật Báo Ân” trong hai tuần, từ ngày 07/3/2016 đến ngày 18/3/2016 và thiết lễ húy nhật Sư Bà từ 9g30 đến 14g ngày 19/3/2016.

 

Đến dự buổi lễ có Hòa thượng Thích Nhựt Huệ, viện chủ chùa Duyên Giác; Hòa thượng Thích Đồng Trí, viện chủ tu viện Viên Chiếu; Thượng tọa Thích Minh Thiện, viện chủ chùa Tuệ Viên; Ni trưởng Thích Nữ Như Thanh, viện chủ chùa An Lạc cùng đông đảo chư Tăng, Ni, Phật tử ở thành phố San Jose và nhiều thành phố ở California.

 

Chương trình chính thức lễ húy nhật được tiến hành như sau:

 

Chư tôn thiền đức Tăng, Ni và Phật tử vân tập

Cung thỉnh chư tôn thiền đức Tăng, Ni quang lâm chánh điện

Tuyên bố lý do buổi lễ (Sư cô Thiền Quang)

Giới thiệu thành phần tham dự

Tác bạch thỉnh lễ (Ni sư Đàm Nhật cùng Ni chúng)

Chư tôn thiền đức chủ trì khóa lễ

Cung đọc Pháp nhũ thâm ân của Sư Bà tọa chủ (Ni sư Đức Hòa)

Đảnh lễ tưởng niệm ân sư (Sư cô Minh Tâm)

Đại diện Ni chúng dâng lời cảm niệm (Sư cô Quảng Tâm)

Đại diện Trường Việt ngữ Đức Viên dâng lời cảm niệm (giáo viên Minh Lâm và học sinh Vân Nghi 6 tuổi)

Đại diện Phật tử dâng lời cảm niệm (anh Bill)

Dâng khúc cúng dường: Nhớ Sư Bà (bé Thiên Nghi), Nhớ Thầy (cô Ngọc Bích)

Tường trình sinh hoạt chùa Đức Viên (Ni sư Đàm Nhật)

Cung thỉnh chư tôn thiền đức tuyên pháp ngữ:

          Hòa thượng Thích Nhựt Huệ

          Hòa thượng Thích Đồng Trí

          Ni trưởng Thích Nữ Nguyên Thanh

          Ni sư Thích Nữ Huệ Hạnh

Hồi hướng

Cung thỉnh chư tôn thiền đức Tăng, Ni quang lâm trai đường

Cúng dường Trai Tăng

Hoàn mãn

 

Buổi lễ được tổ chức trang nghiêm, chu đáo, xúc động và thắm tình đạo vị.

 

 

 


subadamluu
PHÁP NHŨ THÂM ÂN

(10 lời dạy của sư bà

tọa chủ chùa đức viên)

 

  1. Mỗi người nên sống trong giới luật, kính nhường, hòa thuận, thông cảm cùng vui tu học hành đạo. Đừng phân biệt gây cảm tình riêng, bè phái, chia rẽ, hiềm thù, xích mích lẫn nhau để thối thất hạnh nguyện Bồ-đề, muôn kiếp khó gặp. Phải sống luôn trong tâm niệm thực hành: “Vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai” để đền đáp thâm ân Tam Bảo.
    1. Phải lấy giới luật và nội quy làm thầy và giải quyết mọi việc hợp tình, hợp lý. Đừng ích kỷ, cố chấp. Nên tôn trọng khả năng lẫn nhau, và phát tâm dũng mãnh làm tròn bổn phận của mình.
    2. Luôn giữ tâm Bồ-đề vững mạnh, tín tâm làm việc, Tam Bảo sẽ chứng minh công đức.
    3. Diệt trừ cống cao ngã mạn. Đừng tự đề cao mình là tài đức, khinh chê người hèn kém. Mọi việc dù nhỏ cũng phải lưu tâm tiến tu. Mỗi việc đều là gieo nhân tạo phúc, đừng cho là việc phước nhỏ không làm, không xứng đáng với địa vị của mình mà bỏ qua, không chịu hạ mình hòa đồng với người để tiến tu đạo nghiệp cho chính mình và trợ duyên cứu độ tha nhân.
    4. Mong đại chúng dốc lòng tu trì, quán chiếu gìn giữ tâm niệm trong từng phút giây để khỏi bị các chướng duyên lôi kéo chúng ta lìa xa Chính pháp, đến nỗi không đủ sức xả bỏ những điên đảo, vô minh. Giữ tâm kiên chí cho bền chắc: Phải có chí hướng, quyết chí vươn lên cầu giải thoát, đánh đổi tất cả thân xác, đánh đổi tất cả ngã sở này, vận dụng tâm nguyện này, kiếm cái gì cao thượng để thành Phật, thành Bồ Tát.Thấy cái xấu thì mới vươn lên cái tốt, nhờ được thiên hạ cười mình thì mới thấy cái xấu của mình, đừng sợ người cười. Đó mới là tự soi gương. Nuôi chí hướng vươn lên và phát nguyện. Phát những nguyện gì mình làm được dần dần, mỗi ngày làm được, chứ đừng phát nguyện lớn quá, rồi không làm được, ví dụ phát nguyện chia xẻ niềm vui buồn cùng với mọi người, hay phát nguyện niệm Phật 10 lần khi mình vui hay buồn. Dần dần mình sẽ là con Phật, con Bồ Tát.
    5. Chúng ta phải nhớ sinh tử là việc trọng đại, vô thường đến bất cứ lúc nào, phải tinh tấn tu hành và nhất tâm niệm Phật.
    6. Trong cuộc sống, nếu chúng ta luôn quán chiếu về những việc không như ý xảy ra cho chúng ta mỗi ngày, thì khi việc đến chúng ta sẽ dễ dàng ghi nhận mà không phiền não.
    7. Chúng ta cố gắng cởi bỏ bớt những cái áo sân, si, ngã mạn, kiêu căng, cố gắng may những cái áo xả kỷ, vì tha nhân, học hạnh của tha nhân, thân cận với tha nhân. Nếu chúng ta không chịu mặc những áo đẹp vào, không chịu buông bỏ những áo xấu thì chúng ta không xứng đáng với lời phát nguyện ban đầu, tâm xuất gia của chúng ta.
    8. Mỗi ngày quý vị nên tự kiểm lại xem trong những việc đã làm tâm mình thanh tịnh được bao nhiêu phần.  Từ đó phát nguyện cho mình đối cảnh sáng suốt làm lợi ích cho chúng sinh.
    9. Trong lời nói không nên có mệnh đề chỉ thị và nội dung lời nói không nên chứa độc như vậy thì trong chúng được an vui.

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/05/2012(Xem: 7713)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 18622)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 5283)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 7319)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 4389)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 17218)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 8197)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 4676)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 5451)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
23/03/2012(Xem: 5107)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567