Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 421: Phẩm Vô Biên Tế 02

21/07/201509:44(Xem: 13803)
Quyển 421: Phẩm Vô Biên Tế 02

Tập 08

 Quyển 421

Phẩm Vô Biên Tế 02

Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí





 

 

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Do nhân duyên nào nên nói các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; các Đại Bồ-tát đời vị lai vô sở hữu bất khả đắc; các Đại Bồ-tát đời hiện tại vô sở hữu bất khả đắc? Do duyên nào nên nói: sắc vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; thọ, tưởng, hành, thức vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế, cho đến Thanh văn thừa vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; Độc giác thừa, Đại thừa vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế?

Do duyên nào nên nói: Ngay nơi sắc, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa sắc, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi thọ, tưởng, hành, thức, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa thọ, tưởng, hành, thức, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; cho đến ngay nơi Thanh văn thừa, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa Thanh văn thừa, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi Độc giác thừa, Đại thừa, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa Độc giác thừa, Đại thừa, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc?

Do duyên nào nên nói: Tôi đối với tất cả pháp này, bằng mọi cách, mọi nơi, mọi lúc, cầu các Đại Bồ-tát hoàn toàn không thấy, không thể được; làm sao bảo tôi đem Bát-nhã Ba-la-mật-đa dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát?

Do duyên nào nên nói: Các Đại Bồ-tát, các Đại Bồ-tát ấy chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh?

Do duyên nào nên nói: Như nói ngã v.v... rốt ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh?

Do duyên nào nên nói: Các pháp cũng vậy, rốt ráo không sanh chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh?

Do duyên nào nên nói: Các sắc nào rốt ráo không sanh, những thọ, tưởng, hành, thức nào rốt ráo không sanh, cho đến những Thanh văn thừa nào rốt ráo không sanh, những Độc giác thừa, Đại thừa nào rốt ráo không sanh?

Do duyên nào nên nói: Nếu rốt ráo không sanh thì không có tên sắc, cũng không có tên thọ, tưởng, hành, thức, cho đến nếu rốt ráo không sanh thì không có tên Thanh văn thừa, cũng không có tên Độc giác thừa, Đại thừa?

Do duyên nào nên nói: Sao tôi có thể đem Bát-nhã Ba-la-mật-đa rốt ráo không sanh dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát rốt ráo không sanh?

Do duyên nào nên nói: Lìa rốt ráo không sanh thì không có Đại Bồ-tát nào có thể thực hành quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác?

Do duyên nào nên nói: Đại Bồ-tát nào nghe nói như vậy tâm không hoang man, không lo buồn hối hận, tâm họ không kinh, không sợ, nên biết Đại Bồ-tát này có khả năng thực hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa? Thưa Tôn giả, nên giảng rõ cho tôi hiểu.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá-lợi Tử:

- Theo lời Tôn giả hỏi: Do duyên nào nên nói các Đại Bồ-tát  quá khứ vô sở hữu bất khả đắc, các Đại Bồ-tát đời vị lai là vô sở hữu bất khả đắc, các Đại Bồ-tát đời hiện tại là vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Hữu tình vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát quá khứ vô sở hữu bất khả đắc, hữu tình không nên các Đại Bồ-tát quá khứ vô sở hữu bất khả đắc, hữu tình viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc, hữu tình không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát quá khứ vô sở hữu bất khả đắc, các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Sắc vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thọ, tưởng, hành, thức không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thọ, tưởng, hành, thức viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thọ, tưởng, hành, thức không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Nhãn xứ vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn xứ không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn xứ viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn xứ không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Sắc xứ vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc xứ không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc xứ viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc xứ không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Nhãn giới vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn giới không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn giới viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn giới không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Sắc giới vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc giới không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc giới viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc giới không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Nhãn thức giới vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn thức giới không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn thức giới viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn thức giới không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Nhãn xúc vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn xúc không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn xúc viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn xúc không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Bố thí Ba-la-mật-đa là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Bố thí Ba-la-mật-đa viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Bố thí Ba-la-mật-đa không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Pháp không nội vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát  đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tán vô tán, pháp không bổn tánh, pháp không tự cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không vô tánh, pháp không tự tánh, pháp không vô tánh tự tánh vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Pháp không nội là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Pháp không nội viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Pháp không nội không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Bốn niệm trụ vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Bốn niệm trụ là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Bốn niệm trụ viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Bốn niệm trụ không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Như vậy, cho đến mười lực của Phật vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Mười lực của Phật là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Mười lực của Phật viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Mười lực của Phật không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Pháp Thanh văn vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát  đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; pháp Độc giác, pháp chư Phật vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Pháp Thanh văn là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; pháp Độc giác, pháp chư Phật là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Pháp Thanh văn viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; pháp Độc giác, pháp chư Phật viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Pháp Thanh văn không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; pháp Độc giác, pháp chư Phật không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Tất cả môn Tam-ma-địa vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; tất cả môn Đà-la-ni vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Tất cả môn Tam-ma-địa là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; tất cả môn Đà-la-ni là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Tất cả môn Tam-ma-địa viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; tất cả môn Đà-la-ni viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Tất cả môn Tam-ma-địa không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; tất cả môn Đà-la-ni không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Pháp giới vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Pháp giới là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Pháp giới viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Pháp giới không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Thanh văn thừa vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát  đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; Độc giác thừa, Đại thừa vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Thanh văn thừa là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; Độc giác thừa, Đại thừa là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Thanh văn thừa viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; Độc giác thừa, Đại thừa viễn ly nên các Đại Bồ-tát  đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Thanh văn thừa không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; Độc giác thừa, Đại thừa không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Trí nhất thiết vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô sở hữu nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Trí nhất thiết là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Trí nhất thiết viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng viễn ly nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Trí nhất thiết không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không có tự tánh nên các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc. Các Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc cũng như vậy. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì trong không như vậy, nên quá khứ bất khả đắc, vị lai bất khả đắc, hiện tại bất khả đắc, Đại Bồ-tát cũng bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Hoặc không như vậy, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc Đại Bồ-tát, tất cả pháp như vậy đều không hai, không hai phần.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói như vầy: Các Đại Bồ-tát đời quá khứ vô sở hữu bất khả đắc, các Đại Bồ-tát đời vị lai vô sở hữu bất khả đắc, các Đại Bồ-tát đời hiện tại vô sở hữu bất khả đắc.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi: Do duyên nào nên nói sắc vô biên tế nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; thọ, tưởng, hành, thức vô biên tế nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế. Cho đến Thanh văn thừa vô biên tế nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế, Độc giác thừa, Đại thừa vô biên tế nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế.

Này Xá-lợi Tử! Sắc như hư không, thọ; tưởng, hành, thức như hư không. Vì sao? Vì như hư không khoảng trước bất khả đắc, khoảng sau bất khả đắc, khoảng giữa bất khả đắc. Do khoảng cách trong đều bất khả đắc, nên nói là hư không. Sắc cho đến thức cũng như vậy, khoảng trước, khoảng sau, khoảng giữa đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tánh của sắc cho đến thức đều là không.

Này Xá-lợi Tử! Khoảng trước trong không bất khả đắc, khoảng sau bất khả đắc, khoảng giữa bất khả đắc, cũng do các khoảng đó đều bất khả đắc nên nói là không.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói: Sắc vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế; thọ, tưởng, hành, thức vô biên tế, nên biết Đại Bồ-tát cũng vô biên tế, cho đến ba thừa cũng như vậy.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi: Do duyên nào nên nói ngay nơi sắc, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa sắc, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi thọ, tưởng, hành, thức, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa thọ, tưởng, hành, thức, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Cho đến ngay nơi Thanh văn thừa, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa Thanh văn thừa, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi Độc giác thừa, Đại thừa, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa Độc giác thừa, Đại thừa, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Sắc, tánh không của sắc; thọ, tưởng, hành, thức, tánh không của thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc trong tánh không của sắc vô sở hữu bất khả đắc, các Đại Bồ-tát cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thọ, tưởng, hành, thức trong tánh không của thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu bất khả đắc, các Đại Bồ-tát cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Chẳng phải sắc, tánh không của chẳng phải sắc. Chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức, tánh không của chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì chẳng phải sắc ở trong tánh không của chẳng phải sắc vô sở hữu bất khả đắc, các Đại Bồ-tát cũng vô sở hữu bất khả đắc. Chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức ở trong tánh không của chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu bất khả đắc, các Đại Bồ-tát cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói: Ngay nơi sắc, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa sắc, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi thọ, tưởng, hành, thức, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc; lìa thọ, tưởng, hành, thức, Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Cho đến ba thừa cũng như vậy.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi: Do duyên nào nên nói đối với tất cả pháp này, với tất cả chủng loại, mọi nơi, mọi lúc mà mong cầu các Đại Bồ-tát tôi hoàn toàn không thể thấy, không thể được, làm sao bảo tôi đem Bát-nhã Ba-la-mật-đa dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát được?

Này Xá-lợi Tử! Sắc, tánh của sắc là không, sắc đối với sắc vô sở hữu bất khả đắc. Sắc đối với thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu bất khả đắc. Thọ, tưởng, hành, thức trong sắc cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thọ, tánh thọ là không, thọ đối với thọ vô sở hữu bất khả đắc. Thọ đối với sắc, tưởng, hành, thức vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, tưởng, hành, thức trong thọ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Tưởng, tánh của tưởng là không, tưởng đối với tưởng vô sở hữu bất khả đắc. Tưởng đối với sắc, thọ, hành, thức vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thọ, hành, thức trong tưởng cũng vô sở hữu bất khả đắc. Hành, tánh của hành là không, hành đối với hành vô sở hữu bất khả đắc. Hành đối với sắc, thọ, tưởng, thức vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thọ, tưởng, thức trong hành cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thức, tánh của thức là không, thức đối với thức vô sở hữu bất khả đắc. Thức đối với sắc, thọ, tưởng, hành là vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thọ, tưởng, hành trong thức cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Nhãn xứ, tánh của nhãn xứ là không, nhãn xứ đối với nhãn xứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn xứ đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ trong nhãn xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ xứ, tánh của nhĩ xứ là không, nhĩ xứ đối với nhĩ xứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ xứ đối với nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý xứ trong nhĩ xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Tỷ xứ, tánh của tỷ xứ là không, tỷ xứ đối với tỷ xứ vô sở hữu bất khả đắc. Tỷ xứ đối với nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý xứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý xứ trong tỷ xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thiệt xứ, tánh của thiệt xứ là không, thiệt xứ đối với thiệt xứ vô sở hữu bất khả đắc. Thiệt xứ đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý xứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý xứ trong thiệt xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thân xứ, tánh của thân xứ là không, thân xứ đối với thân xứ vô sở hữu bất khả đắc. Thân xứ đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý xứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý xứ trong thân xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Ý xứ, tánh của ý xứ là không, ý xứ đối với ý xứ vô sở hữu bất khả đắc. Ý xứ đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân xứ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân xứ trong ý xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Sắc xứ, tánh của sắc xứ là không, sắc xứ đối với sắc xứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc xứ đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô sở hữu bất khả đắc. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ trong sắc xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thanh xứ, tánh của thanh xứ là không, thanh xứ đối với thanh xứ vô sở hữu bất khả đắc. Thanh xứ đối với sắc, hương, vị, xúc, pháp xứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, hương, vị, xúc, pháp xứ trong thanh xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Hương xứ, tánh của hương xứ là không, hương xứ đối với hương xứ vô sở hữu bất khả đắc. Hương xứ đối với sắc, thanh, vị, xúc, pháp xứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thanh, vị, xúc, pháp xứ trong hương xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Vị xứ, tánh của vị xứ là không, vị xứ đối với vị xứ vô sở hữu bất khả đắc. Vị xứ đối với sắc, thanh, hương, xúc, pháp xứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thanh, hương, xúc, pháp xứ trong vị xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Xúc xứ, tánh của xúc xứ là không, xúc xứ đối với xúc xứ vô sở hữu bất khả đắc. Xúc xứ đối với sắc, thanh, hương, vị, pháp xứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thanh, hương, vị, pháp xứ trong xúc xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Pháp xứ, tánh của pháp xứ là không, pháp xứ đối với pháp xứ vô sở hữu bất khả đắc. Pháp xứ đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc xứ vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thanh, hương, vị, xúc xứ trong pháp xứ cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Nhãn giới, tánh của nhãn giới là không, nhãn giới đối với nhãn giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn giới đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới trong nhãn giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ giới, tánh của nhĩ giới là không, nhĩ giới đối với nhĩ giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ giới đối với nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý giới trong nhĩ giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Tỷ giới, tánh của tỷ giới là không, tỷ giới đối với tỷ giới vô sở hữu bất khả đắc. Tỷ giới đối với nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý giới trong tỷ giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thiệt giới, tánh của thiệt giới là không, thiệt giới đối với thiệt giới vô sở hữu bất khả đắc. Thiệt giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý giới trong thiệt giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thân giới, tánh của thân giới là không, thân giới đối với thân giới vô sở hữu bất khả đắc. Thân giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý giới trong thân giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Ý giới, tánh của ý giới là không, ý giới đối với ý giới vô sở hữu bất khả đắc. Ý giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân giới trong ý giới cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Sắc giới, tánh của sắc giới là không, sắc giới đối với sắc giới vô sở hữu bất khả đắc. Sắc giới đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vô sở hữu bất khả đắc. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới trong sắc giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thanh giới, tánh của thanh giới là không, thanh giới đối với thanh giới vô sở hữu bất khả đắc. Thanh giới đối với sắc, hương, vị, xúc, pháp giới vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, hương, vị, xúc, pháp giới trong thanh giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Hương giới, tánh của hương giới là không, hương giới đối với hương giới vô sở hữu bất khả đắc. Hương giới đối với sắc, thanh, vị, xúc, pháp giới vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thanh, vị, xúc, pháp giới trong hương giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Vị giới, tánh của vị giới là không, vị giới đối với vị giới vô sở hữu bất khả đắc. Vị giới đối với sắc, thanh, hương, xúc, pháp giới vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thanh, hương, xúc, pháp giới trong vị giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Xúc giới, tánh của xúc giới là không, xúc giới đối với xúc giới vô sở hữu bất khả đắc. Xúc giới đối với sắc, thanh, hương, vị, pháp giới vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thanh, hương, vị, pháp giới trong xúc giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Pháp giới, tánh của pháp giới là không, pháp giới đối với pháp giới vô sở hữu bất khả đắc. Pháp giới đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc giới vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thanh, hương, vị, xúc giới trong pháp giới cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Nhãn thức giới, tánh của nhãn thức giới là không, nhãn thức giới đối với nhãn thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn thức giới đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới trong nhãn thức giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ thức giới, tánh của nhĩ thức giới là không, nhĩ thức giới đối với nhĩ thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ thức giới đối với nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới trong nhĩ thức giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Tỷ thức giới, tánh của tỷ thức giới là không, tỷ thức giới đối với tỷ thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Tỷ thức giới đối với nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý thức giới trong tỷ thức giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thiệt thức giới, tánh của thiệt thức giới là không, thiệt thức giới đối với thiệt thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Thiệt thức giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý thức giới trong thiệt thức giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thân thức giới, tánh của thân thức giới là không, thân thức giới đối với thân thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Thân thức giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý thức giới trong thân thức giới cũng vô sở hữu bất khả đắc. Ý thức giới, tánh của ý thức giới là không, ý thức giới đối với ý thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Ý thức giới đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân thức giới vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân thức giới trong ý thức giới cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Nhãn xúc, tánh của nhãn xúc là không, nhãn xúc đối với nhãn xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn xúc đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc trong nhãn xúc cũng vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ xúc, tánh của nhĩ xúc là không, nhĩ xúc đối với nhĩ xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ xúc đối với nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý xúc trong nhĩ xúc cũng vô sở hữu bất khả đắc. Tỷ xúc, tánh của tỷ xúc là không, tỷ xúc đối với tỷ xúc vô sở hữu bất khả đắc. Tỷ xúc đối với nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý xúc trong tỷ xúc cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thiệt xúc, tánh của thiệt xúc là không, thiệt xúc đối với thiệt xúc vô sở hữu bất khả đắc. Thiệt xúc đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý xúc trong thiệt xúc cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thân xúc, tánh của thân xúc là không, thân xúc đối với thân xúc vô sở hữu bất khả đắc. Thân xúc đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý xúc trong thân xúc cũng vô sở hữu bất khả đắc. Ý xúc, tánh của ý xúc là không, ý xúc đối với ý xúc vô sở hữu bất khả đắc. Ý xúc đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân xúc trong ý xúc cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không, các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra trong các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không, các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra trong các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cũng vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không, các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra trong các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cũng vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không, các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhãn, nhĩ, tỷ, thân, ý xúc làm duyên sanh ra trong các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cũng vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không, các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, ý xúc làm duyên sanh ra trong các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không, các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu bất khả đắc. Các thọ do nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân xúc làm duyên sanh ra trong các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng vô sở hữu bất khả đắc.

 

Quyển thứ 421

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/06/2014(Xem: 14758)
Hoài bảo một "CÁI MỘNG" trên 25 năm mới hoàn toàn thực hiện Trong lúc du học ở Xuân Kinh(1938), đến mùa hè năm 1941, tôi được dịp may dự thính lớp Giáo Lý của Đoàn Thanh Niên Dục Đức, trong một tháng (mỗi đêm giảng 2 giờ) , do Bác sĩ Lê Đình Thám đảm trách (lớp này hiện nay còn Thượng Toạ Thích Minh Châu và Đạo hữu Võ Đình Cường v.v...) Tôi thích thú quá! Vì thấy bác sĩ đem phương pháp giảng giải của Tây phương mà giải thích, trình bày một triết lý cao siêu của Đông phương. Sự phối hợp cả Âu và Á làm cho người nghe rất thích thú vì hiểu được rằng triết lý cao siêu của Đông phương qua phương pháp trình bày rõ ràng rành mạch của Tây phương. Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
16/06/2014(Xem: 33793)
Ngày ấy cách đây 50 năm về trước, vào một sáng đầu mùa hè của năm 1964, tôi một mình đạp xe đạp từ làng Mỹ Hạc, Xã Xuyên Mỹ, Quận Duy Xuyên, trực chỉ xuống chùa Viên Giác tọa lạc tại Hội An, Quảng Nam. Hôm đó là ngày Rằm Tháng 5 âm lịch của năm Giáp Thìn. Một chặng đường dài 50 năm như vậy, nói cho đúng là nửa thế kỷ của một kiếp nhân sinh- đã, đương và sẽ có nhiều điều đáng nói. Hay có, dở có, không như ý cũng có
01/06/2014(Xem: 13249)
With my heart full of my beloved Rinpoche, I would very much love for you to come to TBI so that we can commemorate the life and times of our Precious Teacher. Please come and feel the spirit, held in the lotus of compassion, of our cherished and adored spiritual guide and mentor, to TBI on Saturday 31st May, 2.00 – 5.00 pm. In our sacred gompa you will be able to pay homage to our dear founder and mentor Kybje Khensur Kangurwa Lobsang Thubten Rinpoche, who passed away peacefully on 22nd January 2014 in his home at Sera Jey Monastery, South West India.
28/03/2014(Xem: 21751)
Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Trang Nhà Quảng Đức vừa nhận được tin: HT.Thích Trí Tịnh, Đệ nhất Phó Pháp chủ kiêm Giám luật HĐCM; Chủ tịch HĐTS; Trưởng ban Tăng sự T.Ư GHPGVN; Viện chủ chùa Vạn Đức (Q.Thủ Đức, Sài Gòn), Viện chủ chùa Vạn Linh (huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang), do niên cao lạp trưởng, Ngài đã an nhiên viên tịch vào lúc 09g15 sáng nay, 28-3-2014 (nhằm ngày 28-2-Giáp Ngọ) tại chùa Vạn Đức (số 502 đường Tô Ngọc Vân, P.Tam Phú, Q.Thủ Đức, Sàigòn. Trụ thế: 98 năm; Hạ lạp: 69 năm.
20/03/2014(Xem: 10791)
Ở Huế có một dòng sông tên là sông Hương và một ngọn núi tên là núi Ngự. Dưới chân núi có chùa Viên Thông, trong chùa có một vị thiền sư nuôi dạy đồ chúng, đó là thiền sư Liễu Quán. Hồi đó đất nước Việt Nam cũng bị chia đôi, từ sông Gianh ra ngoài Bắc là Chúa Trịnh cai trị còn trở vào Nam là chúa Nguyễn. Các Chúa ở trong Nam tuy gọi là Chúa nhưng kỳ thực họ là những ông vua, xưng là An Nam quốc vương. Chúa Nguyễn Phúc Khoát rất sùng đạo, nhưng vì thiền sư Liễu Quán không ưa lui tới tới phủ Chúa cho nên chúa thường hay tới chùa Viên Thông dưới chân núi để học đạo và cũng vì lý do đó nên người ta gọi ngọn núi đó là núi Ngự, tức là núi mà vua hay tới để nghe pháp.
19/03/2014(Xem: 22184)
Ban Tổ Chức Tang Lễ và Môn đồ pháp quyến chúng con vô cùng kính tiếc, đồng cáo bạch: Trưởng Lão Hòa Thượng thượng Như hạ Lễ Hiệu THÍCH HUYỀN DUNG Đời thứ 41 Thiền Phái Lâm Tế - Nguyên Tổng Trị Sự Trưởng Giáo Hội Tăng Già Nam Việt - Nguyên Chủ Tịch Hội Đồng Giám Sát Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ - Viện Chủ Phật Quang Thiền Viện Đã thuận thế vô thường, thâu thần thị tịch vào lúc 3 giờ 58 chiều ngày 15 tháng 3 năm 2014, (nhằm ngày 15 tháng 2 năm Giáp Ngọ), tại Garden Grove Hospital, Garden Grove, California, Hoa Kỳ, thọ thế 96, hạ lạp 75. a) Lễ Nhập Kim Quan: vào lúc 9 giờ sáng thứ Ba, ngày 25/03/2014 (nhằm ngày 25 tháng 2 năm Giáp Ngọ) b) Lễ Di Quan: vào lúc 11 giờ thứ Tư, ngày 26/03/2014 (Nhằm ngày 26 tháng 2 năm Giáp Ngọ). c) Địa điểm: Nhà Quàn Peak Family Colonial Funeral Home (7801 Bolsa Ave. , Westminster, CA 92683 Ngưỡng xin chư tôn Thiền Đức cùng chư Thiện nam Tín nữ trong mười phương nhất
12/03/2014(Xem: 8850)
Từ khi nghe tin Ôn trở bệnh nặng, phải vào nằm bệnh viện Qui-nhơn, chúng con, những đứa học trò cũ của Ôn từ giữa thập niên 50 của thế kỉ trước, ở Nha-trang, hiện đang sống lưu lạc ở hải ngoại (đa số là thành viên của Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam), đã bàn bạc xôn xao, bồn chồn lo lắng cho một sự mất mát to lớn chẳng biết sẽ xảy ra cho mình vào lúc nào!
12/03/2014(Xem: 10833)
Đạo Phật từ Ấn-độ đã truyền đến Việt-nam vào khoảng giữa thế kỉ thứ 3 trước tây lịch. Đến thế kỉ thứ 2 sau tây lịch, ở nước ta, theo sử sách ghi chép, ngoài sự có mặt hành đạo của các tăng sĩ người Ấn-độ, còn có một tăng đoàn người Việt đông đến 500 vị.
26/02/2014(Xem: 13934)
Tổ sư Minh Đăng Quang sinh ra (năm Quý Hợi 1923) và lớn lên trong giai đoạn đất nước nói chung và Nam Kỳ Lục Tỉnh nói riêng, công cuộc chiếm cứ, thực hiện kế sách bảo hộ lâu dài của thực dân Pháp đã đi vào thế ổn định, và đang tự tin cho bước phát triển tiếp theo tưởng chừng mạnh mẻ ấy. Bởi lẽ trước đó hai năm ( năm Canh Thân 1920) quan toàn quyền Maurice Long
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]