Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 82: Phẩm Chư Thiên Tử 2, Phẩm Thọ Giáo 1

07/07/201516:21(Xem: 14203)
Quyển 82: Phẩm Chư Thiên Tử 2, Phẩm Thọ Giáo 1

Tập 02
Quyển 82
Phẩm Chư Thiên Tử  2
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí


 

Thiên tử nên biết! Đã thấy bố thí Ba-la-mật-đa là như huyễn, như hóa, như mộng; đã thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là như huyễn, như hóa, như mộng, vì sao? Vì tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa v.v... là không.

Thiên tử nên biết! Đã thấy bốn tịnh lự là như huyễn, như hóa, như mộng; đã thấy bốn vô lượng, bốn định vô sắc là như huyễn, như hóa, như mộng, vì sao? Vì tự tánh của bốn tịnh lự v.v... là không.

Thiên tử nên biết! Đã thấy tám giải thoát là như huyễn, như hóa, như mộng; đã thấy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là như huyễn, như hóa, như mộng, vì sao? Vì tự tánh của tám giải thoát v.v... là không.

Thiên tử nên biết! Đã thấy bốn niệm trụ là như huyễn, như hóa, như mộng; đã thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là như huyễn, như hóa, như mộng, vì sao? Vì tự tánh của bốn niệm trụ v.v... là không.

Thiên tử nên biết! Đã thấy pháp môn giải thoát không là như huyễn, như hóa, như mộng; đã thấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là như huyễn, như hóa, như mộng, vì sao? Vì tự tánh của pháp môn giải thoát không v.v... là không.

Thiên tử nên biết! Đã thấy năm loại mắt là như huyễn, như hóa, như mộng; đã thấy sáu phép thần thông là như huyễn, như hóa, như mộng, vì sao? Vì tự tánh của năm loại mắt v.v... là không.

Thiên tử nên biết! Đã thấy mười lực của Phật là như huyễn, như hóa, như mộng; đã thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là như huyễn, như hóa, như mộng, vì sao? Vì tự tánh của mười lực Phật v.v... là không.

Thiên tử nên biết! Đã thấy pháp không quên mất là như huyễn, như hóa, như mộng; đã thấy tánh luôn luôn xả là như huyễn, như hóa, như mộng, vì sao? Vì tự tánh của pháp không quên mất v.v... là không.

Thiên tử nên biết! Đã thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni là như huyễn, như hóa, như mộng; đã thấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa là như huyễn, như hóa, như mộng, vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni v.v... là không.

Thiên tử nên biết! Đã thấy trí nhất thiết là như huyễn, như hóa, như mộng; đã thấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là như huyễn, như hóa, như mộng, vì sao? Vì tự tánh của trí nhất thiết v.v... là không.

Thiên tử nên biết! Đã thấy Thanh-văn thừa là như huyễn, như hóa, như mộng; đã thấy Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa là như huyễn, như hóa, như mộng, vì sao? Vì tự tánh của Thanh-văn thừa v.v... là không.

Thiên tử nên biết! Đã thấy Dự-lưu là như huyễn, như hóa, như mộng; đã thấy Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là như huyễn, như hóa, như mộng, vì sao? Vì tự tánh của Dự-lưu v.v... là không.

Thiên tử nên biết! Đã thấy Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả là như huyễn, như hóa, như mộng; đã thấy Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả là như huyễn, như hóa, như mộng, vì sao? Vì tự tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả v.v... là không.

Thiên tử nên biết! Đã thấy Độc-giác là như huyễn, như hóa, như mộng; đã thấy Độc-giác hướng, Độc-giác quả là như huyễn, như hóa, như mộng, vì sao? Vì tự tánh của Độc-giác v.v... là không.

Thiên tử nên biết! Đã thấy đại Bồ-tát là như huyễn, như hóa, như mộng; đã thấy Tam-miệu-tam Phật-đà là như huyễn, như hóa, như mộng, vì sao? Vì tự tánh của đại Bồ-tát v.v... là không.

Thiên tử nên biết! Đã thấy pháp của đại Bồ-tát là như huyễn, như hóa, như mộng; đã thấy quả vị giác ngộ cao tột là như huyễn, như hóa, như mộng, vì sao? Vì tự tánh của pháp đại Bồ-tát v.v... là không.

Thiên tử nên biết! Đã thấy bậc Cực hỷ là như huyễn, như hóa, như mộng; đã thấy bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân là như huyễn, như hóa, như mộng, vì sao? Vì tự tánh của bậc Cực hỷ v.v... là không.

Thiên tử nên biết! Đã thấy pháp của bậc Cực hỷ là như huyễn, như hóa, như mộng; đã thấy pháp của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân là như huyễn, như hóa, như mộng, vì sao? Vì tự tánh của pháp bậc Cực hỷ v.v... là không.

Thiên tử nên biết! Đã thấy bậc phàm phu là như huyễn, như hóa, như mộng; đã thấy bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai là như huyễn, như hóa, như mộng, vì sao? Vì tự tánh của bậc phàm phu v.v... là không.

Thiên tử nên biết! Đã thấy pháp của bậc phàm phu là như huyễn, như hóa, như mộng; đã thấy pháp của bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai là như huyễn, như hóa, như mộng, vì sao? Vì tự tánh của pháp bậc phàm phu v.v... là không.

Thiên tử nên biết! Đã thấy cảnh giới hữu vi là như huyễn, như hóa, như mộng; đã thấy cảnh giới vô vi là như huyễn, như hóa, như mộng, vì sao? Vì tự tánh của cảnh giới hữu vi v.v... là không.

 

Thiên tử nên biết! Do duyên cớ này nên tôi nói thế này: Hữu tình như huyễn, vì đối tượng như huyễn mà thuyết pháp như huyễn; hữu tình như hóa, vì đối tượng như hóa, mà thuyết pháp như hóa; hữu tình như mộng, vì đối tượng như mộng, mà thuyết pháp như mộng.

Khi ấy, chư Thiên tử hỏi Thiện Hiện: Nay Tôn giả chỉ nói cái đã thấy về ngã v.v… sắc v.v… cho đến quả vị giác ngộ cao tột là như huyễn, như hóa, như mộng, cũng vì nói cái đã thấy về Niết-bàn cứu cánh tịch tịnh vi diệu là như huyễn, như hóa, như mộng chăng?

Thiện Hiện đáp: Chư Thiên tử! Ta chẳng những chỉ nói cái đã thấy về ngã v.v… sắc v.v… cho đến quả vị giác ngộ cao tột là như huyễn, như hóa, như mộng, lại cũng nói cái đã thấy về Niết-bàn cứu cánh tịch tịnh vi diệu là như huyễn, như hóa, như mộng mà Thiên tử nên biết, dầu cho có cái đã thấy về pháp Niết-bàn thù thắng thì ta cũng nói là như huyễn, như hóa, như mộng. Vì sao? Vì sự huyễn, hóa, mộng cùng với tất cả pháp cho đến Niết-bàn đều không hai, không hai phần.

 

 

Tập 02
Quyển 82
Phẩm Thọ Giáo 1

 

         Lúc bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử, cụ thọ Đại Mục Liên, cụ thọ Chấp Đại Tạng, cụ thọ Mãn Từ Tử, cụ thọ Đại Ca Đa Diễn Na, cụ thọ Đại Ca Diếp Ba v.v… chư đại Thanh-văn và vô lượng trăm ngàn đại Bồ-tát cùng lúc hỏi Thiện Hiện: Đã nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa là thâm sâu khó thấy, khó biết như vậy, chẳng phải là đối tượng tầm, tư, cảnh siêu tầm tư, vi diệu tịch tịnh tối thắng đệ nhất, chỉ có bậc Cực thánh mới tự nội chứng, người thông tuệ ở đời chẳng thể suy lường được. Đối với pháp như vậy ai là người có khả năng tín thọ?

Thiện Hiện đáp: Có đại Bồ-tát trụ bậc bất thối chuyển đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa khó thấy khó biết, chẳng phải đối tượng tầm tư, cảnh siêu tầm tư, vi diệu, tịch tịnh, tối thắng đệ nhất này, có khả năng tín thọ sâu xa. Lại có người đã thấy Thánh đế và A-la-hán lậu tận, sở nguyện đã mãn, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, cũng có khả năng tín thọ. Lại có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ở chỗ vô lượng vô số trăm ngàn ức các đức Phật trong quá khứ đã thân cận cúng dường, phát thệ nguyện rộng lớn, gieo các giống lành, lợi căn thông tuệ, người đã nhiếp thọ các thiện tri thức đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thâm sâu, khó thấy, khó biết, chẳng phải đối tượng tầm tư, cảnh siêu tầm tư, vi diệu, tịch tịnh, tối thắng đệ nhất này, cũng có khả năng tín thọ. Vì sao? Vì những người như vậy hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt sắc, cũng chẳng lấy sắc để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng lấy thọ, tưởng, hành, thức để phân biệt không, bất không; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt sắc, cũng chẳng lấy sắc để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng lấy thọ, tưởng, hành, thức để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt sắc, cũng chẳng lấy sắc để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng lấy thọ, tưởng, hành, thức để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt sắc, cũng chẳng lấy sắc để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng lấy thọ, tưởng, hành, thức để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt sắc, cũng chẳng lấy sắc để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng lấy thọ, tưởng, hành, thức để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt sắc, cũng chẳng lấy sắc để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng lấy thọ, tưởng, hành, thức để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt sắc, cũng chẳng lấy sắc để phân biệt viễn ly, bất viễn ly; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng lấy thọ, tưởng, hành, thức để phân biệt viễn ly, bất viễn ly.

Những người như vậy, hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt nhãn xứ, cũng chẳng lấy nhãn xứ để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng chẳng lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ để phân biệt không, bất không; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt nhãn xứ, cũng chẳng lấy nhãn xứ để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng chẳng lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt nhãn xứ, cũng chẳng lấy nhãn xứ để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng chẳng lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt nhãn xứ, cũng chẳng lấy nhãn xứ để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng chẳng lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt nhãn xứ, cũng chẳng lấy nhãn xứ để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng chẳng lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt nhãn xứ, cũng chẳng lấy nhãn xứ để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng chẳng lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt nhãn xứ, cũng chẳng lấy nhãn xứ để phân biệt viễn ly, bất viễn ly; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng chẳng lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ để phân biệt viễn ly, bất viễn ly.

Những người như vậy, hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt sắc xứ, cũng chẳng lấy sắc xứ để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng chẳng lấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ để phân biệt không, bất không; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt sắc xứ, cũng chẳng lấy sắc xứ để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng chẳng lấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt sắc xứ, cũng chẳng lấy sắc xứ để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng chẳng lấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt sắc xứ, cũng chẳng lấy sắc xứ để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng chẳng lấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt sắc xứ, cũng chẳng lấy sắc xứ để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng chẳng lấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt sắc xứ, cũng chẳng lấy sắc xứ để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng chẳng lấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt sắc xứ, cũng chẳng lấy sắc xứ để phân biệt viễn ly, bất viễn ly; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng chẳng lấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ để phân biệt viễn ly, bất viễn ly.

Những người như vậy, hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt nhãn giới, cũng chẳng lấy nhãn giới để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra để phân biệt không, bất không; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt nhãn giới, cũng chẳng lấy nhãn giới để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt nhãn giới, cũng chẳng lấy nhãn giới để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt nhãn giới, cũng chẳng lấy nhãn giới để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt nhãn giới, cũng chẳng lấy nhãn giới để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt nhãn giới, cũng chẳng lấy nhãn giới để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt nhãn giới, cũng chẳng lấy nhãn giới để phân biệt viễn ly, bất viễn ly; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra để phân biệt viễn ly, bất viễn ly.

Những người như vậy, hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt nhĩ giới, cũng chẳng lấy nhĩ giới để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra để phân biệt không, bất không; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt nhĩ giới, cũng chẳng lấy nhĩ giới để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt nhĩ giới, cũng chẳng lấy nhĩ giới để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt nhĩ giới, cũng chẳng lấy nhĩ giới để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt nhĩ giới, cũng chẳng lấy nhĩ giới để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt nhĩ giới, cũng chẳng lấy nhĩ giới để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt nhĩ giới, cũng chẳng lấy nhĩ giới để phân biệt viễn ly, bất viễn ly; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra để phân biệt viễn ly, bất viễn ly.

Những người như vậy, hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt tỷ giới, cũng chẳng lấy tỷ giới để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra để phân biệt không, bất không; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt tỷ giới, cũng chẳng lấy tỷ giới để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt tỷ giới, cũng chẳng lấy tỷ giới để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt tỷ giới, cũng chẳng lấy tỷ giới để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt tỷ giới, cũng chẳng lấy tỷ giới để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt tỷ giới, cũng chẳng lấy tỷ giới để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt tỷ giới, cũng chẳng lấy tỷ giới để phân biệt viễn ly, bất viễn ly; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra để phân biệt viễn ly, bất viễn ly.

Những người như vậy, hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt thiệt giới, cũng chẳng lấy thiệt giới để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra để phân biệt không, bất không; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt thiệt giới, cũng chẳng lấy thiệt giới để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt thiệt giới, cũng chẳng lấy thiệt giới để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt thiệt giới, cũng chẳng lấy thiệt giới để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt thiệt giới, cũng chẳng lấy thiệt giới để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt thiệt giới, cũng chẳng lấy thiệt giới để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt thiệt giới, cũng chẳng lấy thiệt giới để phân biệt viễn ly, bất viễn ly; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra để phân biệt viễn ly, bất viễn ly.

Những người như vậy, hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt thân giới, cũng chẳng lấy thân giới để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra để phân biệt không, bất không; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt thân giới, cũng chẳng lấy thân giới để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt thân giới, cũng chẳng lấy thân giới để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt thân giới, cũng chẳng lấy thân giới để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt thân giới, cũng chẳng lấy thân giới để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt thân giới, cũng chẳng lấy thân giới để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt thân giới, cũng chẳng lấy thân giới để phân biệt viễn ly, bất viễn ly; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra để phân biệt viễn ly, bất viễn ly.

Những người như vậy, hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt ý giới, cũng chẳng lấy ý giới để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra để phân biệt không, bất không; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt ý giới, cũng chẳng lấy ý giới để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt ý giới, cũng chẳng lấy ý giới để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt ý giới, cũng chẳng lấy ý giới để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt ý giới, cũng chẳng lấy ý giới để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt ý giới, cũng chẳng lấy ý giới để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt ý giới, cũng chẳng lấy ý giới để phân biệt viễn ly, bất viễn ly; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng lấy pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra để phân biệt viễn ly, bất viễn ly.

Những người như vậy, hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt địa giới, cũng chẳng lấy địa giới để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cũng chẳng lấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới để phân biệt không, bất không; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt địa giới, cũng chẳng lấy địa giới để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cũng chẳng lấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt địa giới, cũng chẳng lấy địa giới để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cũng chẳng lấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt địa giới, cũng chẳng lấy địa giới để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cũng chẳng lấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt địa giới, cũng chẳng lấy địa giới để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cũng chẳng lấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt địa giới, cũng chẳng lấy địa giới để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cũng chẳng lấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt địa giới, cũng chẳng lấy địa giới để phân biệt viễn ly, bất viễn ly; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cũng chẳng lấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới để phân biệt viễn ly, bất viễn ly.

Những người như vậy, hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt Thánh đế khổ, cũng chẳng lấy Thánh đế khổ để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng chẳng lấy Thánh đế tập, diệt, đạo để phân biệt không, bất không; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt Thánh đế khổ, cũng chẳng lấy Thánh đế khổ để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng chẳng lấy Thánh đế tập, diệt, đạo để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt Thánh đế khổ, cũng chẳng lấy Thánh đế khổ để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng chẳng lấy Thánh đế tập, diệt, đạo để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt Thánh đế khổ, cũng chẳng lấy Thánh đế khổ để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng chẳng lấy Thánh đế tập, diệt, đạo để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt Thánh đế khổ, cũng chẳng lấy Thánh đế khổ để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng chẳng lấy Thánh đế tập, diệt, đạo để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt Thánh đế khổ, cũng chẳng lấy Thánh đế khổ để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng chẳng lấy Thánh đế tập, diệt, đạo để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt Thánh đế khổ, cũng chẳng lấy Thánh đế khổ để phân biệt viễn ly, bất viễn ly; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng chẳng lấy Thánh đế tập, diệt, đạo để phân biệt viễn ly, bất viễn ly.

Những người như vậy, hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt vô minh, cũng chẳng lấy vô minh để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, cũng chẳng lấy hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não để phân biệt không, bất không; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt vô minh, cũng chẳng lấy vô minh để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, cũng chẳng lấy hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt vô minh, cũng chẳng lấy vô minh để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, cũng chẳng lấy hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt vô minh, cũng chẳng lấy vô minh để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, cũng chẳng lấy hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt vô minh, cũng chẳng lấy vô minh để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, cũng chẳng lấy hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt vô minh, cũng chẳng lấy vô minh để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, cũng chẳng lấy hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt vô minh, cũng chẳng lấy vô minh để phân biệt viễn ly, bất viễn ly; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, cũng chẳng lấy hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não để phân biệt viễn ly, bất viễn ly.

Những người như vậy, hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt cái không nội, cũng chẳng lấy cái không nội để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh, cũng chẳng lấy cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh để phân biệt không, bất không; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt cái không nội, cũng chẳng lấy cái không nội để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh, cũng chẳng lấy cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt cái không nội, cũng chẳng lấy cái không nội để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh, cũng chẳng lấy cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt cái không nội, cũng chẳng lấy cái không nội để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh, cũng chẳng lấy cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt cái không nội, cũng chẳng lấy cái không nội để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh, cũng chẳng lấy cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt cái không nội, cũng chẳng lấy cái không nội để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh, cũng chẳng lấy cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt cái không nội, cũng chẳng lấy cái không nội để phân biệt viễn ly, bất viễn ly; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh, cũng chẳng lấy cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh để phân biệt viễn ly, bất viễn ly.

Những người như vậy, hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt chơn như, cũng chẳng lấy chơn như để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, cũng chẳng lấy pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì để phân biệt không, bất không; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt chơn như, cũng chẳng lấy chơn như để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, cũng chẳng lấy pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt chơn như, cũng chẳng lấy chơn như để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, cũng chẳng lấy pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt chơn như, cũng chẳng lấy chơn như để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, cũng chẳng lấy pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt chơn như, cũng chẳng lấy chơn như để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, cũng chẳng lấy pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt chơn như, cũng chẳng lấy chơn như để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, cũng chẳng lấy pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt chơn như, cũng chẳng lấy chơn như để phân biệt viễn ly, bất viễn ly; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, cũng chẳng lấy pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì để phân biệt viễn ly, bất viễn ly.

 
Quyển thứ  82

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/06/2014(Xem: 33115)
Ngày ấy cách đây 50 năm về trước, vào một sáng đầu mùa hè của năm 1964, tôi một mình đạp xe đạp từ làng Mỹ Hạc, Xã Xuyên Mỹ, Quận Duy Xuyên, trực chỉ xuống chùa Viên Giác tọa lạc tại Hội An, Quảng Nam. Hôm đó là ngày Rằm Tháng 5 âm lịch của năm Giáp Thìn. Một chặng đường dài 50 năm như vậy, nói cho đúng là nửa thế kỷ của một kiếp nhân sinh- đã, đương và sẽ có nhiều điều đáng nói. Hay có, dở có, không như ý cũng có
01/06/2014(Xem: 13115)
With my heart full of my beloved Rinpoche, I would very much love for you to come to TBI so that we can commemorate the life and times of our Precious Teacher. Please come and feel the spirit, held in the lotus of compassion, of our cherished and adored spiritual guide and mentor, to TBI on Saturday 31st May, 2.00 – 5.00 pm. In our sacred gompa you will be able to pay homage to our dear founder and mentor Kybje Khensur Kangurwa Lobsang Thubten Rinpoche, who passed away peacefully on 22nd January 2014 in his home at Sera Jey Monastery, South West India.
28/03/2014(Xem: 21643)
Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Trang Nhà Quảng Đức vừa nhận được tin: HT.Thích Trí Tịnh, Đệ nhất Phó Pháp chủ kiêm Giám luật HĐCM; Chủ tịch HĐTS; Trưởng ban Tăng sự T.Ư GHPGVN; Viện chủ chùa Vạn Đức (Q.Thủ Đức, Sài Gòn), Viện chủ chùa Vạn Linh (huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang), do niên cao lạp trưởng, Ngài đã an nhiên viên tịch vào lúc 09g15 sáng nay, 28-3-2014 (nhằm ngày 28-2-Giáp Ngọ) tại chùa Vạn Đức (số 502 đường Tô Ngọc Vân, P.Tam Phú, Q.Thủ Đức, Sàigòn. Trụ thế: 98 năm; Hạ lạp: 69 năm.
20/03/2014(Xem: 10685)
Ở Huế có một dòng sông tên là sông Hương và một ngọn núi tên là núi Ngự. Dưới chân núi có chùa Viên Thông, trong chùa có một vị thiền sư nuôi dạy đồ chúng, đó là thiền sư Liễu Quán. Hồi đó đất nước Việt Nam cũng bị chia đôi, từ sông Gianh ra ngoài Bắc là Chúa Trịnh cai trị còn trở vào Nam là chúa Nguyễn. Các Chúa ở trong Nam tuy gọi là Chúa nhưng kỳ thực họ là những ông vua, xưng là An Nam quốc vương. Chúa Nguyễn Phúc Khoát rất sùng đạo, nhưng vì thiền sư Liễu Quán không ưa lui tới tới phủ Chúa cho nên chúa thường hay tới chùa Viên Thông dưới chân núi để học đạo và cũng vì lý do đó nên người ta gọi ngọn núi đó là núi Ngự, tức là núi mà vua hay tới để nghe pháp.
19/03/2014(Xem: 22010)
Ban Tổ Chức Tang Lễ và Môn đồ pháp quyến chúng con vô cùng kính tiếc, đồng cáo bạch: Trưởng Lão Hòa Thượng thượng Như hạ Lễ Hiệu THÍCH HUYỀN DUNG Đời thứ 41 Thiền Phái Lâm Tế - Nguyên Tổng Trị Sự Trưởng Giáo Hội Tăng Già Nam Việt - Nguyên Chủ Tịch Hội Đồng Giám Sát Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ - Viện Chủ Phật Quang Thiền Viện Đã thuận thế vô thường, thâu thần thị tịch vào lúc 3 giờ 58 chiều ngày 15 tháng 3 năm 2014, (nhằm ngày 15 tháng 2 năm Giáp Ngọ), tại Garden Grove Hospital, Garden Grove, California, Hoa Kỳ, thọ thế 96, hạ lạp 75. a) Lễ Nhập Kim Quan: vào lúc 9 giờ sáng thứ Ba, ngày 25/03/2014 (nhằm ngày 25 tháng 2 năm Giáp Ngọ) b) Lễ Di Quan: vào lúc 11 giờ thứ Tư, ngày 26/03/2014 (Nhằm ngày 26 tháng 2 năm Giáp Ngọ). c) Địa điểm: Nhà Quàn Peak Family Colonial Funeral Home (7801 Bolsa Ave. , Westminster, CA 92683 Ngưỡng xin chư tôn Thiền Đức cùng chư Thiện nam Tín nữ trong mười phương nhất
12/03/2014(Xem: 8764)
Từ khi nghe tin Ôn trở bệnh nặng, phải vào nằm bệnh viện Qui-nhơn, chúng con, những đứa học trò cũ của Ôn từ giữa thập niên 50 của thế kỉ trước, ở Nha-trang, hiện đang sống lưu lạc ở hải ngoại (đa số là thành viên của Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam), đã bàn bạc xôn xao, bồn chồn lo lắng cho một sự mất mát to lớn chẳng biết sẽ xảy ra cho mình vào lúc nào!
12/03/2014(Xem: 10735)
Đạo Phật từ Ấn-độ đã truyền đến Việt-nam vào khoảng giữa thế kỉ thứ 3 trước tây lịch. Đến thế kỉ thứ 2 sau tây lịch, ở nước ta, theo sử sách ghi chép, ngoài sự có mặt hành đạo của các tăng sĩ người Ấn-độ, còn có một tăng đoàn người Việt đông đến 500 vị.
26/02/2014(Xem: 13864)
Tổ sư Minh Đăng Quang sinh ra (năm Quý Hợi 1923) và lớn lên trong giai đoạn đất nước nói chung và Nam Kỳ Lục Tỉnh nói riêng, công cuộc chiếm cứ, thực hiện kế sách bảo hộ lâu dài của thực dân Pháp đã đi vào thế ổn định, và đang tự tin cho bước phát triển tiếp theo tưởng chừng mạnh mẻ ấy. Bởi lẽ trước đó hai năm ( năm Canh Thân 1920) quan toàn quyền Maurice Long
05/02/2014(Xem: 20012)
Thượng Tọa Thích Minh Tân - Giáo Thọ tại TTPG-Chùa Việt Nam, Houston, Texas. - Lãnh đạo tinh thần Chùa Bảo Quang, San Antonio, Texas. - Viện Chủ Chùa Viên Giác, Richmond, Virginia. Đã viên tịch vào lúc: 01:10 sáng Thứ Ba ngày 04/02/2014 sau một cơn tai biến (Stroke). Trụ thế 58 năm, trong sự hộ niệm của đại chúng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]