Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 311: Phẩm Biện Sự 02, Phẩm Chúng Dụ 01

12/07/201520:35(Xem: 14412)
Quyển 311: Phẩm Biện Sự 02, Phẩm Chúng Dụ 01

Tập 06

 Quyển 311

Phẩm Biện Sự 02

Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm

Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí

 

 

 

Phật dạy: Hay thay! Hay thay! Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói!

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy sắc có thể chấp có thể trước, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy nhãn xứ có thể chấp có thể trước, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy sắc xứ có thể chấp có thể trước; chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy nhãn giới có thể chấp có thể trước; chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy nhĩ giới có thể chấp có thể trước; chẳng thấy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy tỷ giới có thể chấp có thể trước; chẳng thấy hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy thiệt giới có thể chấp có thể trước; chẳng thấy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy thân giới có thể chấp có thể trước; chẳng thấy xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy ý giới có thể chấp có thể trước; chẳng thấy pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy địa giới có thể chấp có thể trước; chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy vô minh có thể chấp có thể trước; chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy bố thí Ba-la-mật-đa có thể chấp có thể trước; chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy pháp không nội có thể chấp có thể trước; chẳng thấy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy chơn như có thể chấp có thể trước; chẳng thấy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy Thánh đế khổ có thể chấp có thể trước; chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy bốn tịnh lự có thể chấp có thể trước; chẳng thấy bốn vô lượng, bốn định vô sắc có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy tám giải thoát có thể chấp có thể trước; chẳng thấy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy bốn niệm trụ có thể chấp có thể trước; chẳng thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy pháp môn giải thoát không có thể chấp có thể trước; chẳng thấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy mười địa Bồ-tát có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy năm loại mắt có thể chấp có thể trước, chẳng thấy sáu phép thần thông có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy mười lực Phật có thể chấp có thể trước; chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy pháp không quên mất có thể chấp có thể trước, chẳng thấy tánh luôn luôn xả có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy trí nhất thiết có thể chấp có thể trước; chẳng thấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni có thể chấp có thể trước, chẳng thấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy quả Dự-lưu có thể chấp có thể trước; chẳng thấy quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy quả vị Độc-giác có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy tất cả hạnh đại Bồ-tát có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy tánh Phật, tánh Như Lai, tánh pháp tự nhiên, tánh trí nhất thiết trí của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước. Cho nên, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước sắc, chẳng nên chấp trước thọ, tưởng, hành, thức. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước nhãn xứ, chẳng nên chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước sắc xứ; chẳng nên chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước nhãn giới; chẳng nên chấp trước sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước nhĩ giới; chẳng nên chấp trước thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước tỷ giới; chẳng nên chấp trước hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước thiệt giới; chẳng nên chấp trước vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước thân giới; chẳng nên chấp trước xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước ý giới; chẳng nên chấp trước pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước địa giới; chẳng nên chấp trước thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước vô minh; chẳng nên chấp trước hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước bố thí Ba-la-mật-đa; chẳng nên chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước pháp không nội; chẳng nên chấp trước pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước; chơn như của chẳng nên chấp trước pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước Thánh đế khổ, chẳng nên chấp trước Thánh đế tập, diệt, đạo. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước bốn tịnh lự; chẳng nên chấp trước bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước tám giải thoát; chẳng nên chấp trước tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước bốn niệm trụ; chẳng nên chấp trước bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước pháp môn giải thoát không; chẳng nên chấp trước pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước mười địa Bồ-tát. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước năm loại mắt, chẳng nên chấp trước sáu phép thần thông. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước mười lực Phật; chẳng nên chấp trước bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước pháp không quên mất, chẳng nên chấp trước tánh luôn luôn xả. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước trí nhất thiết; chẳng nên chấp trước trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng nên chấp trước tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước quả Dự-lưu; chẳng nên chấp trước quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước quả vị Độc-giác. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước tất cả hạnh đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước tánh Phật, tánh Như Lai, tánh pháp tự nhiên, tánh trí nhất thiết trí của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Lúc bấy giờ, các Thiên tử ở Dục giới và Sắc giới bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế rất là sâu xa, khó thấy khó biết, chẳng thể suy tìm, vượt cảnh suy tìm, vắng lặng mầu nhiệm, chắc thật kín đáo, người trí tuệ thông minh mới có thể biết rõ được.

Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình có khả năng tin hiểu sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế thì nên biết họ đã từng cúng dường vô lượng chư Phật trong quá khứ; ở chỗ chư Phật phát nguyện rộng lớn, trồng nhiều căn lành, đã được vô lượng các thiện tri thức nhiếp thọ mới có khả năng tin hiểu Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Bạch Thế Tôn! Giả sử các loại hữu tình trong thế giới ba lần ngàn, đều thành tựu tùy tín hành, tùy pháp hành, đệ bát, Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, Độc-giác thì sự thành tựu ấy, hoặc trí, hoặc đoạn, cũng chẳng bằng có người, một ngày đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này ưa thích, tư duy, xưng lường, quán sát, sự thành tựu nhẫn của người ấy đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, hơn trí đoạn kia vô lượng, vô biên. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Trí đoạn của các tùy tín hành đều chỉ là một phần nhỏ nhẫn đối với vô sanh pháp nhẫn của đại Bồ-tát đã chứng đắc.

Bạch Thế Tôn! Trí đoạn của chư tùy pháp hành, đệ bát, Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, Độc-giác đều chỉ là một phần nhỏ nhẫn đối với vô sanh pháp nhẫn của đại Bồ-tát đã chứng đắc.

Bấy giờ, Phật bảo các Thiên tử: Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như các ông đã nói! Trí đoạn của chư tùy tín hành, tùy pháp hành, đệ bát Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, Độc-giác đều chỉ là một phần nhỏ nhẫn đối với vô sanh pháp nhẫn của đại Bồ-tát đã chứng đắc.

Thiên tử nên biết! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào vừa nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, nghe rồi sao chép, đọc tụng, thọ trì, tư duy, tu tập thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy thoát khỏi sanh tử, chứng đắc Niết-bàn, nhanh hơn các thiện nam tử, thiện nữ nhơn khác thích cầu Thanh-văn, Độc-giác, xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà học kinh điển khác, một kiếp hoặc hơn một kiếp. Vì sao? Này các Thiên tử! Trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa rất sâu xa này, rộng nói tất cả thắng pháp vi diệu. Chư tùy tín hành, hoặc tùy pháp hành, đệ bát, Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, Độc-giác, đại Bồ-tát đều nên đối với pháp này mà tinh cần tu học. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương pháp này mà học, đã chứng, sẽ chứng và hiện chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Khi ấy, các Thiên tử đều cùng bạch: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế là Ba-la-mật-đa lớn. Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế là Ba-la-mật-đa chẳng thể nghĩ bàn. Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế là Ba-la-mật-đa chẳng thể xưng lường. Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế là Ba-la-mật-đa không có số lượng. Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế là Ba-la-mật-đa không gì sánh bằng.

Bạch Thế Tôn! Chư tùy tín hành, hoặc tùy pháp hành, đệ bát, Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, Độc-giác đều đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế mà tinh cần tu học, chóng thoát sanh tử, chứng đắc Niết-bàn. Tất cả đại Bồ-tát đều đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế mà tinh cần tu học, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn! Tuy chư Thanh-văn, Độc-giác, Bồ-tát đều nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế mà tinh cần tu học, đều được rốt ráo, nhưng Bát-nhã-ba-la-mật-đa ấy chẳng tăng chẳng giảm.

Khi ấy, chư Thiên tử Dục giới, Sắc giới nói như vậy rồi, cúi đầu lễ sát chân Phật, vòng quanh bên mặt ba vòng, từ giã Phật trở về cung, ra khỏi hội chúng không xa, bỗng nhiên biến mất.

 

Tập 06

 Quyển 311

Phẩm Chúng Dụ 01

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy phát sanh tin hiểu sâu sắc, lại thường sao chép, đọc tụng, thọ trì, tư duy, tu tập thì đại Bồ-tát ấy từ nơi nào sanh đến chốn này?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế phát sanh tin hiểu sâu sắc, chẳng khiếp chẳng nhược, chẳng sợ chẳng hãi, chẳng nghi chẳng hoặc, mừng vui thích thú, nhất niệm tư duy nghĩa lý của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, hoặc đi khi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm không hề dừng nghỉ, thường theo Pháp sư cung kính thưa hỏi, như nghé con chẳng rời mẹ nó thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, vì cầu nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng bao giờ xa rời pháp sư Bát-nhã. Khi chưa chứng đắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, kinh điển cầm tay, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, rốt ráo thông lợi, thường theo Pháp sư chưa từng ngưng nghỉ thì này Thiện Hiện, nên biết đại Bồ-tát ấy, từ cõi người sanh vào cõi người. Vì sao? Này Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa này, đời trước đã thích nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; nghe rồi thọ trì, đọc tụng, tư duy, tinh tấn tu tập; lại thường sao chép, dùng các báu trang sức; lại dùng các loại tràng hoa tuyệt diệu, hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan, bảo cái, kỹ nhạc, đèn đuốc, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; do căn lành này, từ cõi người chết đi, rồi sanh lại cõi người, nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, phát sanh tin hiểu sâu sắc; lại thường sao chép, đọc tụng, thọ trì, tư duy, tu tập.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Có đại Bồ-tát nào thành tựu công đức thù thắng như thế, cúng dường phụng sự chư Phật ở phương khác rồi từ phương ấy sanh vào cõi này, nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, phát sanh tin hiểu sâu sắc, lại thường sao chép, đọc tụng, thọ trì, tư duy, tu tập không mệt mỏi chăng?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Có đại Bồ-tát thành tựu công đức thù thắng như thế, cúng dường phụng sự chư Phật ở phương khác, rồi từ nơi ấy sanh vào cõi này, nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, phát sanh tin hiểu sâu sắc; lại thường sao chép, đọc tụng, thọ trì, tư duy, tu tập, không có mệt mỏi. Vì sao? Vì đại Bồ-tát ấy, từ trước ở chỗ vô lượng chư Phật phương khác, đã nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, phát sanh tin hiểu sâu sắc; lại thường sao chép, đọc tụng, thọ trì, tư duy, tu tập, không có mệt mỏi; họ nhờ căn lành ấy, nên từ nơi cõi kia, sanh vào chốn này.

Lại nữa, Thiện Hiện! Cũng có đại Bồ-tát từ cõi trời Đỗ-sử-đa, sau khi mạng chung, sanh vào cõi người, nên biết họ cũng thành tựu công đức thù thắng như thế. Vì sao? Vì đại Bồ-tát ấy đời trước ở cõi trời Đỗ-sử-đa, trú xứ của đại Bồ-tát Di Lặc đã thưa hỏi nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã-ba-la-mật-đa; họ nhờ vào căn lành ấy, nên từ nơi kia sanh vào chốn này, nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, phát sanh tin hiểu sâu sắc; lại thường sao chép, đọc tụng, thọ trì, tư duy, tu tập không có mệt mỏi.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe tịnh lự Ba-la-mật-đa nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe tinh tấn Ba-la-mật-đa nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe an nhẫn Ba-la-mật-đa nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe tịnh giới Ba-la-mật-đa nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe bố thí Ba-la-mật-đa nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe bốn tịnh lự nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe bốn vô lượng nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe bốn định vô sắc nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe tám giải thoát nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe tám thắng xứ nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe chín định thứ đệ nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe mười biến xứ nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe bốn niệm trụ nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe bốn chánh đoạn nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe bốn thần túc nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe năm căn nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe năm lực nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe bảy chi đẳng giác nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe tám chi thánh đạo nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe mười địa Bồ-tát nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe năm loại mắt nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe sáu phép thần thông nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe mười lực Phật nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe bốn điều không sợ nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe bốn sự hiểu biết thông suốt nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe mười tám pháp Phật bất cộng nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe pháp không quên mất nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe tánh luôn luôn xả nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe trí nhất thiết nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe trí đạo tướng nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe trí nhất thiết tướng nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe tất cả pháp môn Đà-la-ni nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe tất cả pháp môn Tam-ma-địa nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe tất cả hạnh đại Bồ-tát nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa, cũng từng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa nhưng chẳng thường tùy thuận tu hành trải qua một ngày, hai, ba, bốn, năm ngày, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, dầu trải qua một ngày cho đến năm ngày, tâm họ kiên cố không thể lay chuyển, nhưng nếu xa lìa việc nghe liền bị thối thất. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì chúng sanh trụ Bồ-tát thừa ấy, do ở đời trước được nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy có thưa hỏi nghĩa lý sâu xa nhưng chẳng như thuyết, tùy thuận tu hành. Cho nên đời nay nếu gặp thiện hữu ân cần khuyến khích thì ưa lắng nghe thọ trì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; nếu không có thiện hữu ân cần khuyến khích thì đối với kinh này chẳng ưa lắng nghe thọ trì. người ấy đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa có lúc ưa nghe, có lúc chẳng ưa, hoặc có khi kiên cố, có khi thối thất, tâm họ bất ổn, tiến thối không thường như lụa mỏng bay theo chiều gió.

Này Thiện Hiện! Nên biết chúng sanh ấy phát tâm hướng về Đại-thừa trải qua thời gian chưa lâu, chưa thận cận nhiều với các chơn thiện tri thức, chưa từng cúng dường chư Phật Thế Tôn, chưa từng thọ trì, đọc tụng, sao chép, tư duy, diễn nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Nên biết chúng sanh ấy chưa từng tu học Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, chưa từng tu học tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; chưa từng tu học pháp không nội, chưa từng tu học pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chưa từng tu học chơn như, chưa từng tu học pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; chưa từng tu học Thánh đế khổ, chưa từng tu học Thánh đế tập, diệt, đạo; chưa từng tu học bốn tịnh lự, chưa từng tu học bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chưa từng tu học tám giải thoát, chưa từng tu học tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chưa từng tu học bốn niệm trụ, chưa từng tu học bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; chưa từng tu học pháp môn giải thoát không, chưa từng tu học pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chưa từng tu học mười địa Bồ-tát; chưa từng tu học năm loại mắt, chưa từng tu học sáu phép thần thông; chưa từng tu học mười lực Phật, chưa từng tu học bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chưa từng tu học pháp không quên mất, chưa từng tu học tánh luôn luôn xả; chưa từng tu học trí nhất thiết, chưa từng tu học trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chưa từng tu học tất cả pháp môn Đà-la-ni, chưa từng tu học tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chưa từng tu học pháp quả Dự-lưu, chưa từng tu học pháp quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chưa từng tu học pháp quả vị Độc-giác; chưa từng tu học tất cả hạnh đại Bồ-tát; chưa từng tu học quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này Thiện Hiện! Nên biết chúng sanh như thế mới hướng về Đại-thừa, đối với pháp Đại-thừa thành tựu một phần ít tin, kính, ưa, thích, chưa thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, vì người diễn nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

 

Quyển thứ 311

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 5702)
Nói đến thơ và nền Triết Học lưu xuất từ Tư Tưởng Phật học Tánh Không hay một Triết lý phiêu bồng từ Đông sang Tây của thế tục đế, hầu như đã được tồn đọng trong con người gầy guộc, nhỏ nhắn, dáng dấp phiêu diêu, lãng đãng như sương sớm, mây chiều.
29/03/2013(Xem: 5496)
Những năm tháng dùi mài kinh điển trong các tự viện để thể nhập Phật học huyền vi, u hiển, một thời nào đó đã lầu thông giáo lý cao siêu giải thoát, hướng thân lập mệnh trên con đường giác ngộ, để rồi hôm nay là thành quả hiển nhiên có được tận cùng tâm hồn sâu thẳm mà Thầy đang phô diễn như ý nghĩa cao siêu của Đại Bi Tâm.
29/03/2013(Xem: 5767)
Đây là chủ đề bài thuyết trình của diễn giả Nguyên Siêu, tác giả 650 trang sách trong tác phẩm “Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ, Và Phương Trời Mộng” tập 1 và tập 2 vừa hoàn thành và được chính thức ra mắt tại hội trường của Hiệp Hội Người Việt tại San Diego, miền Nam California.
29/03/2013(Xem: 11908)
Tôi người Quảng Bình, 1 trong 3 nơi mà Huyền Trân công chúa mới đáng là thành hoàng. Tổ tiên gốc người Hải dương, 4 cha con cùng có mặt trong đạo quân tiếp quản Quảng Bình, rồi định cư ở 3 làng. Thuận Lý là con trưởng, kế đó, Phương Xuân là con thứ 2. Diêm điền, làng tôi, là nơi Tổ của làng tôi cùng con út định cư.Làng tôi cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng bình chỉ có chừng 600 mét đường chim bay.
27/03/2013(Xem: 11847)
Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 01 (2007, Canada) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 02 (2008, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 03 (2019, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 04 (2010, Đức) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 05 (2011, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 06 (2012, Úc) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 07 (2013, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 08 (2014, Úc) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 09 (2015, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 10 (2016, Canada) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 11 (2018, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 12 (2020, Úc)
18/03/2013(Xem: 6274)
Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam, trước năm 1975 là một trung tâm văn hóa Phật giáo nổi tiếng lừng lẫy. Nơi đây đã quy tụ biết bao hào kiệt trượng phu, biết bao tao nhân mặc khách, biết bao giáo sư, triết gia cự phách thượng đẳng. Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị, xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên bầu trời văn nghệ Việt Nam và thế giới.
11/03/2013(Xem: 6977)
Lê Quý Đôn (1726-1784) là một danh sĩ, nhà văn hóa, sử gia, sống vào đời Hậu Lê. Ông không những ba lần thi đều đỗ đầu, kinh qua nhiều chức quan, đã từng đi sứ sang Trung Quốc, mà còn là một nhà bác học, đã để lại một gia tài đồ sộ bao gồm khoảng 16 tác phẩm và nhiều thơ, phú bằng chữ Nôm khác. [1] Trong số những tác phẩm ấy, có Kiến văn tiểu lục, [2] là một tác phẩm dành riêng quyển 9 – thiên Thiền dật, để viết về Phật giáo và Thiền tông Phật giáo Việt Nam, chủ yếu là những vị Tổ thuộc Thiền phái Trúc lâm. Trong bài viết ngắn này, chúng ta thử chỉ tìm hiểu quan điểm của Lê Quý Đôn về Phật giáo, mà không bàn sâu đến phần Thiền tông Việt Nam mà ông đã chép.
21/02/2013(Xem: 7572)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái. Ngài sinh trưởng trong một gia đình Nho phong. Thân phụ Ngài tinh thông Hán học. Cả hai ông bà lại rất thâm tín Phật pháp. Do đó, Ngài được hấp thụ ngay từ thuở ấu thơ hai nền văn hóa cổ truyền của dân tộc là Khổng giáo và Phật giáo.
19/02/2013(Xem: 8965)
Mới đây các nhà khảo cổ Mỹ và Canada đưa ra chứng cứ cho rằng Phật giáo đã được truyền vào Mỹ trước khi ông Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên, theo các tài liệu có được hiện nay thì Phật giáo chỉ thật sự có mặt tại Mỹ sau kỳ Đại hội Tôn giáo Thế giới tổ chức tại bang Chicago vào năm 1893. Nhưng ai là người có công truyền bá và làm lớn mạnh "hạt giống Bồ đề" trên đất Mỹ? Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số nhà sư cư sĩ người châu Á, những người tiên phong có công đặt nền móng xây dựng ngôi nhà chánh pháp trên đất Mỹ.
10/02/2013(Xem: 10249)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]