Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 69: Phẩm Vô Sở Đắc 9

07/07/201511:57(Xem: 14365)
Quyển 69: Phẩm Vô Sở Đắc 9

Kinh Dai Bat Nha- HT Thich Tri Nghiem_2_b
Tập 02

Quyển 69
Phẩm Vô Sở Đắc 9

 Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí

 

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa là vô nhiễm, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự là vô nhiễm, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắc là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát là vô nhiễm, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là vô nhiễm, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không là vô nhiễm, cũng không tan mất; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là vô nhiễm, cũng không tan mất. Xá Lợi Tử! Năm loại mắt là vô nhiễm, cũng không tan mất; sáu phép thần thông là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật là vô nhiễm, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết là vô nhiễm, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất là vô nhiễm, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni là vô nhiễm, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ là vô nhiễm, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu là vô nhiễm, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa là vô nhiễm, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp là thanh tịnh, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp là thanh tịnh, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào là thanh tịnh, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc là thanh tịnh, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ là thanh tịnh, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ là thanh tịnh, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới là thanh tịnh, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới là thanh tịnh, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới là thanh tịnh, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới là thanh tịnh, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giới là thanh tịnh, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giới là thanh tịnh, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giới là thanh tịnh, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giới là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ là thanh tịnh, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minh là thanh tịnh, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội là thanh tịnh, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa là thanh tịnh, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự là thanh tịnh, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắc là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát là thanh tịnh, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là thanh tịnh, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không là thanh tịnh, cũng không tan mất; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt là thanh tịnh, cũng không tan mất; sáu phép thần thông là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật là thanh tịnh, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết là thanh tịnh, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất là thanh tịnh, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni là thanh tịnh, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ là thanh tịnh, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu là thanh tịnh, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa là thanh tịnh, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp là xuất thế gian, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp là xuất thế gian, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào là xuất thế gian, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc là xuất thế gian, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ là xuất thế gian, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ là xuất thế gian, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới là xuất thế gian, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới là xuất thế gian, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới là xuất thế gian, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới là xuất thế gian, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giới là xuất thế gian, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giới là xuất thế gian, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giới là xuất thế gian, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giới là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ là xuất thế gian, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minh là xuất thế gian, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội là xuất thế gian, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa là xuất thế gian, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự là xuất thế gian, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắc là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát là xuất thế gian, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là xuất thế gian, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không là xuất thế gian, cũng không tan mất; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt là xuất thế gian, cũng không tan mất; sáu phép thần thông là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật là xuất thế gian, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết là xuất thế gian, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất là xuất thế gian, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni là xuất thế gian, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ là xuất thế gian, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu là xuất thế gian, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa là xuất thế gian, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp là vô vi, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp là vô vi, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào là vô vi, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc là vô vi, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ là vô vi, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ là vô vi, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới là vô vi, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới là vô vi, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới là vô vi, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới là vô vi, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giới là vô vi, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giới là vô vi, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giới là vô vi, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giới là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ là vô vi, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minh là vô vi, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội là vô vi, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa là vô vi, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự là vô vi, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắc là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát là vô vi, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là vô vi, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không là vô vi, cũng không tan mất; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là vô vi, cũng không tan mất. Xá Lợi Tử! Năm loại mắt là vô vi, cũng không tan mất; sáu phép thần thông là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật là vô vi, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết là vô vi, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất là vô vi, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni là vô vi, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ là vô vi, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu là vô vi, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa là vô vi, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tất cả pháp chẳng phải thường, chẳng phải hoại.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Vì sao tất cả pháp chẳng phải thường, chẳng phải hoại?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Thân giới chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Ý giới chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Địa giới chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Vô minh chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Cái không nội chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; sáu phép thần thông chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; tánh luôn luôn xả chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; Độc-giác thừa, Đại-thừa chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Nói tóm lại, tất cả pháp thiện chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy. Tất cả pháp phi thiện chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy. Tất cả pháp hữu ký chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy. Tất cả pháp vô ký chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy. Tất cả pháp hữu lậu chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy. Tất cả pháp vô lậu chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy. Tất cả pháp hữu vi chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy. Tất cả pháp vô vi chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng như vậy, đều không có tự tánh.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại đáp lời Xá Lợi Tử: Như Tôn giả đã hỏi, vì duyên cớ gì mà nói sắc v.v… các pháp rốt ráo chẳng sanh?

Xá Lợi Tử! Bản tánh của sắc rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của sắc cho đến thức chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của nhãn xứ rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của nhãn xứ cho đến ý xứ chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của sắc xứ rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của sắc xứ cho đến pháp xứ chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của nhãn giới rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của nhĩ giới rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của tỷ giới rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của thiệt giới rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của thân giới rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của ý giới rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của địa giới rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của địa giới cho đến thức giới chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của Thánh đế khổ rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của vô minh rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của cái không nội rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bố thí Ba-la-mật-đa rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bốn tịnh lự rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của tám giải thoát rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của tám giải thoát cho đến mười biến xứ chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bốn niệm trụ rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của pháp môn giải thoát không rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của  pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của năm loại mắt rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của sáu phép thần thông rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của năm loại mắt, sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của mười lực Phật rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của trí nhất thiết rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của pháp không quên mất rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của tánh luôn luôn xả rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của pháp không quên mất thất, tánh luôn luôn xả chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bậc Cực hỷ rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bậc phàm phu rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của bậc Chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của bậc phàm phu cho đến bậc Như Lai chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của Thanh-văn thừa rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của Độc-giác thừa, Đại-thừa rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của Thanh-văn thừa, Độc-giác thừa, Đại-thừa chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là sắc v.v… các pháp rốt ráo chẳng sanh.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại đáp lời Xá Lợi Tử: Như lời Tôn giả đã hỏi, vì duyên cớ gì mà nói là nếu rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng gọi là sắc v.v…?

Xá Lợi Tử! Đúng vậy! Đúng vậy! Nếu rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng gọi là sắc v.v... Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của sắc là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là sắc.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là thọ, tưởng, hành, thức.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của nhãn xứ là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là nhãn xứ.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của sắc xứ là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là sắc xứ.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của nhãn giới là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là nhãn giới.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của nhĩ giới là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là nhĩ giới.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của tỷ giới là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là tỷ giới.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của thiệt giới là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là thiệt giới.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của thân giới là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là thân giới.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của ý giới là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là ý giới.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của địa giới là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là địa giới.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của Thánh đế khổ là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là Thánh đế khổ.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là Thánh đế tập, diệt, đạo.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của vô minh là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là vô minh.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của cái không nội là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là cái không nội.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là bố thí Ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bốn tịnh lự là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là bốn tịnh lự.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của tám giải thoát là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là tám giải thoát.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là tám thắng xứ cho đến mười biến xứ.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bốn niệm trụ là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là bốn niệm trụ.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của pháp môn giải thoát không là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là pháp môn giải thoát không.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

 

Quyển thứ 69

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 5702)
Nói đến thơ và nền Triết Học lưu xuất từ Tư Tưởng Phật học Tánh Không hay một Triết lý phiêu bồng từ Đông sang Tây của thế tục đế, hầu như đã được tồn đọng trong con người gầy guộc, nhỏ nhắn, dáng dấp phiêu diêu, lãng đãng như sương sớm, mây chiều.
29/03/2013(Xem: 5497)
Những năm tháng dùi mài kinh điển trong các tự viện để thể nhập Phật học huyền vi, u hiển, một thời nào đó đã lầu thông giáo lý cao siêu giải thoát, hướng thân lập mệnh trên con đường giác ngộ, để rồi hôm nay là thành quả hiển nhiên có được tận cùng tâm hồn sâu thẳm mà Thầy đang phô diễn như ý nghĩa cao siêu của Đại Bi Tâm.
29/03/2013(Xem: 5767)
Đây là chủ đề bài thuyết trình của diễn giả Nguyên Siêu, tác giả 650 trang sách trong tác phẩm “Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ, Và Phương Trời Mộng” tập 1 và tập 2 vừa hoàn thành và được chính thức ra mắt tại hội trường của Hiệp Hội Người Việt tại San Diego, miền Nam California.
29/03/2013(Xem: 11908)
Tôi người Quảng Bình, 1 trong 3 nơi mà Huyền Trân công chúa mới đáng là thành hoàng. Tổ tiên gốc người Hải dương, 4 cha con cùng có mặt trong đạo quân tiếp quản Quảng Bình, rồi định cư ở 3 làng. Thuận Lý là con trưởng, kế đó, Phương Xuân là con thứ 2. Diêm điền, làng tôi, là nơi Tổ của làng tôi cùng con út định cư.Làng tôi cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng bình chỉ có chừng 600 mét đường chim bay.
27/03/2013(Xem: 11848)
Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 01 (2007, Canada) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 02 (2008, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 03 (2019, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 04 (2010, Đức) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 05 (2011, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 06 (2012, Úc) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 07 (2013, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 08 (2014, Úc) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 09 (2015, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 10 (2016, Canada) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 11 (2018, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 12 (2020, Úc)
18/03/2013(Xem: 6274)
Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam, trước năm 1975 là một trung tâm văn hóa Phật giáo nổi tiếng lừng lẫy. Nơi đây đã quy tụ biết bao hào kiệt trượng phu, biết bao tao nhân mặc khách, biết bao giáo sư, triết gia cự phách thượng đẳng. Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị, xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên bầu trời văn nghệ Việt Nam và thế giới.
11/03/2013(Xem: 6977)
Lê Quý Đôn (1726-1784) là một danh sĩ, nhà văn hóa, sử gia, sống vào đời Hậu Lê. Ông không những ba lần thi đều đỗ đầu, kinh qua nhiều chức quan, đã từng đi sứ sang Trung Quốc, mà còn là một nhà bác học, đã để lại một gia tài đồ sộ bao gồm khoảng 16 tác phẩm và nhiều thơ, phú bằng chữ Nôm khác. [1] Trong số những tác phẩm ấy, có Kiến văn tiểu lục, [2] là một tác phẩm dành riêng quyển 9 – thiên Thiền dật, để viết về Phật giáo và Thiền tông Phật giáo Việt Nam, chủ yếu là những vị Tổ thuộc Thiền phái Trúc lâm. Trong bài viết ngắn này, chúng ta thử chỉ tìm hiểu quan điểm của Lê Quý Đôn về Phật giáo, mà không bàn sâu đến phần Thiền tông Việt Nam mà ông đã chép.
21/02/2013(Xem: 7572)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái. Ngài sinh trưởng trong một gia đình Nho phong. Thân phụ Ngài tinh thông Hán học. Cả hai ông bà lại rất thâm tín Phật pháp. Do đó, Ngài được hấp thụ ngay từ thuở ấu thơ hai nền văn hóa cổ truyền của dân tộc là Khổng giáo và Phật giáo.
19/02/2013(Xem: 8965)
Mới đây các nhà khảo cổ Mỹ và Canada đưa ra chứng cứ cho rằng Phật giáo đã được truyền vào Mỹ trước khi ông Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên, theo các tài liệu có được hiện nay thì Phật giáo chỉ thật sự có mặt tại Mỹ sau kỳ Đại hội Tôn giáo Thế giới tổ chức tại bang Chicago vào năm 1893. Nhưng ai là người có công truyền bá và làm lớn mạnh "hạt giống Bồ đề" trên đất Mỹ? Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số nhà sư cư sĩ người châu Á, những người tiên phong có công đặt nền móng xây dựng ngôi nhà chánh pháp trên đất Mỹ.
10/02/2013(Xem: 10249)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]