Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 126: Phẩm So Sánh Công Đức 24

08/07/201500:20(Xem: 13809)
Quyển 126: Phẩm So Sánh Công Đức 24

Tập 03
Quyển 126
Phẩm So Sánh Công Đức 24
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí


 

Này Khánh Hỷ! Nên biết, thí như đại địa lấy hạt giống rải trên đó, nếu các duyên hòa hợp thì được sanh trưởng. Nên biết, đại địa đối với hạt giống sanh trưởng, là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển. Như vậy, Bát-nhã-ba-la-mật-đa và nơi hồi hướng trí nhất thiết trí đối với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển, khiến được sanh trưởng, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với bố thí cho đến tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn. Cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Khánh Hỷ! Nên biết, thí như đại địa lấy hạt giống rải trên đó, nếu các duyên hòa hợp thì được sanh trưởng. Nên biết, đại địa đối với hạt giống sanh trưởng, là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển. Như vậy, Bát-nhã-ba-la-mật-đa và nơi hồi hướng trí nhất thiết trí đối với pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp tự tánh không, pháp không không tánh tự tánh kia là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển, khiến được hiển hiện, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn, cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Khánh Hỷ! Nên biết, thí như đại địa lấy hạt giống rải trên đó, nếu các duyên hòa hợp thì được sanh trưởng. Nên biết, đại địa đối với hạt giống sanh trưởng, là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển. Như vậy, Bát-nhã-ba-la-mật-đa và nơi hồi hướng trí nhất thiết trí, đối với chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì kia là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển, khiến được hiển hiện, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn. Cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Khánh Hỷ! Nên biết, thí như đại địa lấy hạt giống rải trên đó, nếu các duyên hòa hợp thì được sanh trưởng. Nên biết, đại địa đối với hạt giống sanh trưởng, là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển. Như vậy, Bát-nhã-ba-la-mật-đa và nơi hồi hướng trí nhất thiết trí đối với Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển, khiến được hiển hiện, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo kia, là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn. Cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Khánh Hỷ! Nên biết, thí như đại địa lấy hạt giống rải trên đó, nếu các duyên hòa hợp thì được sanh trưởng. Nên biết, đại địa đối với hạt giống sanh trưởng, là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển. Như vậy, Bát-nhã-ba-la-mật-đa và nơi hồi hướng trí nhất thiết trí đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển, khiến được sanh trưởng, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn. Cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Khánh Hỷ! Nên biết, thí như đại địa lấy hạt giống rải trên đó, nếu các duyên hòa hợp thì được sanh trưởng. Nên biết, đại địa đối với hạt giống sanh trưởng, là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển. Như vậy, Bát-nhã-ba-la-mật-đa và nơi hồi hướng trí nhất thiết trí đối với tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển, khiến được sanh trưởng, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn. Cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Khánh Hỷ! Nên biết, thí như đại địa lấy hạt giống rải trên đó, nếu các duyên hòa hợp thì được sanh trưởng. Nên biết, đại địa đối với hạt giống sanh trưởng, là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển. Như vậy, Bát-nhã-ba-la-mật-đa và nơi hồi hướng trí nhất thiết trí đối với bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển khiến được sanh trưởng, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn. Cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Khánh Hỷ! Nên biết, thí như đại địa lấy hạt giống rải trên đó, nếu các duyên hòa hợp thì được sanh trưởng. Nên biết, đại địa đối với hạt giống sanh trưởng, là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển. Như vậy, Bát-nhã-ba-la-mật-đa và nơi hồi hướng trí nhất thiết trí đối với pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển, khiến được sanh trưởng, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn. Cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Khánh Hỷ! Nên biết, thí như đại địa lấy hạt giống rải trên đó, nếu các duyên hòa hợp thì được sanh trưởng. Nên biết, đại địa đối với hạt giống sanh trưởng, là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển. Như vậy, Bát-nhã-ba-la-mật-đa và nơi hồi hướng trí nhất thiết trí đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển, khiến được sanh trưởng, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn. Cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Khánh Hỷ! Nên biết, thí như đại địa lấy hạt giống rải trên đó, nếu các duyên hòa hợp thì được sanh trưởng. Nên biết, đại địa đối với hạt giống sanh trưởng, là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển. Như vậy, Bát-nhã-ba-la-mật-đa và nơi hồi hướng trí nhất thiết trí đối với mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển, khiến được sanh trưởng, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn. Cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Khánh Hỷ! Nên biết, thí như đại địa lấy hạt giống rải trên đó, nếu các duyên hòa hợp thì được sanh trưởng. Nên biết, đại địa đối với hạt giống sanh trưởng, là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển. Như vậy, Bát-nhã-ba-la-mật-đa và nơi hồi hướng trí nhất thiết trí đối với pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển, khiến được sanh trưởng, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn. Cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Khánh Hỷ! Nên biết, thí như đại địa lấy hạt giống rải trên đó, nếu các duyên hòa hợp thì được sanh trưởng. Nên biết, đại địa đối với hạt giống sanh trưởng, là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển. Như vậy, Bát-nhã-ba-la-mật-đa và nơi hồi hướng trí nhất thiết trí đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển, khiến được sanh trưởng, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn. Cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Khánh Hỷ! Nên biết, thí như đại địa lấy hạt giống rải trên đó, nếu các duyên hòa hợp thì được sanh trưởng. Nên biết, đại địa đối với hạt giống sanh trưởng, là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển. Như vậy, Bát-nhã-ba-la-mật-đa và nơi hồi hướng trí nhất thiết trí đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển, khiến được sanh trưởng, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn. Cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Khánh Hỷ! Nên biết, thí như đại địa lấy hạt giống rải trên đó, nếu các duyên hòa hợp thì được sanh trưởng. Nên biết, đại địa đối với hạt giống sanh trưởng, là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển. Như vậy, Bát-nhã-ba-la-mật-đa và nơi hồi hướng trí nhất thiết trí đối với hạnh đại Bồ-tát kia là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển, khiến được sanh trưởng, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với hạnh đại Bồ-tát kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn. Cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Khánh Hỷ! Nên biết, thí như đại địa lấy hạt giống rải trên đó, nếu các duyên hòa hợp thì được sanh trưởng. Nên biết, đại địa đối với hạt giống sanh trưởng, là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển. Như vậy, Bát-nhã-ba-la-mật-đa và nơi hồi hướng trí nhất thiết trí đối với quả vị giác ngộ cao tột kia là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển, khiến được sanh trưởng, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với quả vị giác ngộ cao tột kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn. Cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nay đây Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với tất cả công đức của Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, nói còn chưa hết. Vì sao? Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà con đã lãnh thọ từ Thế Tôn, với công đức rộng sâu, không bờ bến. Các thiện nam tử, thiện nữ nhân đối Bát-nhã-ba-la-mật-đa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi thì công đức có được cũng không bờ bến. Nếu có người sao chép Bát-nhã-ba-la-mật-đa này rồi dùng các thứ trang trí cho đẹp, lại dùng vô lượng tràng hoa, các loại hương xoa, hương bột tuyệt diệu, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý lạ, kỹ nhạc, đèn sáng, tất cả vật sở hữu cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen thì công đức có được cũng không bờ bến.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bà rộng rãi thì do đó mới có mười thiện nghiệp đạo xuất hiện ở thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bá rộng rãi thì do đó mới có bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông v.v… xuất hiện ở thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bá rộng rãi thì do đó mới có bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa xuất hiện thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bá rộng rãi thì do đó mới có pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp tự tánh không, pháp không không tánh tự tánh xuất hiện ở thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bá rộng rãi thì do đó mới có chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì xuất hiện ở thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bá rộng rãi thì do đó mới có Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo xuất hiện ở thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bá rộng rãi thì do đó mới có tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ xuất hiện ở thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bá rộng rãi thì do đó mới có bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo xuất hiện ở thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bá rộng rãi thì do đó mới có pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện xuất hiện ở thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bá rộng rãi thì do đó mới có năm loại mắt, sáu phép thần thông xuất hiện ở thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bá rộng rãi thì do đó mới có mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng xuất hiện ở thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bá rộng rãi thì do đó mới có pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả xuất hiện ở thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bá rộng rãi thì do đó mới có trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng xuất hiện ở thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bá rộng rãi thì do đó mới có tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa xuất hiện ở thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bá rộng rãi thì do đó mới có dòng dõi lớn Sát-đế-lợi, dòng dõi lớn Bà-la-môn, dòng dõi lớn Trưởng giả, dòng dõi lớn Cư sĩ xuất hiện ở thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bá rộng rãi thì do đó mới có chúng trời Tứ-đại-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-ma, trời Đỗ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại xuất hiện ở thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bá rộng rãi thì do đó mới có trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội, trời Đại-phạm, trời Quang, trời Thiểu-quang, trời Vô-lượng-quang, trời Cực-quang-tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-tịnh, trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả xuất hiện ở thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bá rộng rãi thì do đó mới có trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời Sắc-cứu-cánh xuất hiện ở thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bá rộng rãi thì do đó mới có trời Không-vô-biên-xứ, trời Thức-vô-biên-xứ, trời Vô-sở-hữu-xứ, trời Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ xuất hiện ở thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bá rộng rãi thì do đó mới có Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán và Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả xuất hiện ở thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bá rộng rãi thì do đó mới có Độc-giác và quả vị Độc-giác xuất hiện ở thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bá rộng rãi thì do đó mới có đại Bồ-tát và hạnh đại Bồ-tát xuất hiện ở thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bá rộng rãi thì do đó mới có tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và quả vị giác ngộ cao tột xuất hiện ở thế gian.

Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích: Này Kiều Thi Ca! Ta chẳng nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này mà chỉ có nói công đức như trước. Vì sao? Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế đầy đủ vô biên công đức thù thắng.

Này Kiều Thi Ca! Ta cũng chẳng nói đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi và thường sao chép, trang trí đẹp đẽ, lại dùng vô lượng tràng hoa, các thứ hương xoa, hương bột tuyệt diệu, y phục, anh lạc, tràng phan, lộng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng, hết tất cả vật sở hữu, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen thì các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… chỉ có được công đức như trước đã nói. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… chẳng lìa tâm của trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi, hoặc lại sao chép, trang trí đẹp đẽ, lại dùng vô lượng tràng hoa, các thứ hương xoa, hương bột tuyệt diệu, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quí, kỹ nhạc, đèn sáng, hết tất cả vật sở hữu cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy thành tựu vô lượng giới uẩn thù thắng, thành tựu vô lượng định uẩn thù thắng, thành tựu vô lượng tuệ uẩn thù thắng, thành tựu vô lượng giải thoát uẩn thù thắng, thành tựu vô lượng giải thoát tri kiến uẩn thù thắng.

Này Kiều Thi Ca! Nên biết, thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy như Phật. Vì sao? Vì đã quyết định hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.

Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy vượt qua bậc Thanh-văn và Độc-giác. Vì sao? Vì đã cởi bỏ tất cả tâm hạ liệt của Thanh-văn, Độc-giác.

Này Kiều Thi Ca! Tất cả sự thành tựu về giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của Thanh-văn, Độc-giác đối với sự thành tựu về giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... này thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, ức phần chẳng bằng một, trăm ức phần chẳng bằng một, ngàn ức phần chẳng bằng một, trăm ngàn ức phần chẳng bằng một, trăm ngàn ức ức phần chẳng bằng một, phần toán số, phần tính đếm, phần thí dụ cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy vượt qua tất cả tâm tưởng hạ liệt của Thanh-văn, Độc-giác, đối với các pháp của Thanh-văn, Độc-giác thừa chẳng bao giờ khen ngợi, đối với tất cả pháp, không pháp nào là không biết, nghĩa là có khả năng biết đúng đắn rằng tất cả là không sở hữu.

Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... chẳng lìa tâm của trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi, hoặc lại sao chép, trang trí đẹp đẽ, rồi dùng vô lượng tràng hoa, các thứ hương xoa, hương bột tuyệt diệu, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quí, kỹ nhạc, đèn sáng, hết cả vật sở hữu cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, ta nói, có được vô lượng vô biên công đức thù thắng trong hiện tại và vị lai.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... chẳng lìa tâm của trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi, hoặc lại sao chép, dùng các vật báu trang trí, rồi dùng các thứ tràng hoa, các thứ hương xoa, hương bột tuyệt diệu, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quí, kỹ nhạc, đèn sáng, hết các vật sở hữu cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, thì chư thiên chúng con thường theo ủng hộ, chẳng để tất cả loài nhơn phi nhơn, các thứ ác duyên nhiễu hại.

Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... lấy tâm tương ưng trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này thọ trì, đọc tụng thì khi ấy có vô lượng trăm ngàn Thiên tử vì nghe pháp đều tập trung đến, vui mừng nhảy nhót, kính thọ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm ấy.

Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... lấy tâm tương ưng trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện tuyên thuyết pháp tương ưng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như vậy thì khi ấy có vô lượng chư Thiên tử v.v… đều tập trung đến, dùng oai lực của chư Thiên khiến người thuyết pháp tăng thêm biện tài, nói mãi không hết.

Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... lấy tâm tương ưng trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như vậy thì khi ấy có vô lượng chư Thiên tử v.v… vì kính trọng pháp đều tập trung đến, dùng oai lực của chư Thiên khiến người thuyết pháp biện tài không sơ hở, dù có vấn nạn, chẳng gây trở ngại.

Này Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... lấy tâm tương ưng trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi, hoặc lại sao chép, dùng các vật báu trang trí, rồi dùng các thứ tràng hoa, các thứ hương xoa, hương bột tuyệt diệu, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quí, kỹ nhạc, đèn sáng, hết các vật sở hữu cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, ở trong đời hiện tại có được vô biên công đức thắng lợi, các ma và quyến thuộc chẳng thể xâm phạm quấy nhiễu.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Hoặc có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ở trong bốn chúng tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như vậy, tâm không khiếp sợ, chẳng bị tất cả vấn nạn làm khuất phục. Vì sao? Vì những kẻ ấy nhờ sự gia hộ của Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm ấy. Lại trong tạng bí mật Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, đã phân biệt các pháp rộng rãi, đầy đủ, đó là hoặc pháp thiện, pháp bất thiện, pháp vô ký, hoặc pháp quá khứ, pháp vị lai, pháp hiện tại, hoặc pháp thuộc dục giới, pháp thuộc sắc giới, pháp thuộc vô sắc giới, hoặc pháp học, pháp vô học, pháp phi học phi vô học, hoặc pháp kiến sở đoạn, pháp tu sở đoạn, pháp phi sở đoạn, hoặc pháp thế gian, pháp xuất thế gian, hoặc pháp hữu lậu, pháp vô lậu, hoặc pháp hữu vi, pháp vô vi, hoặc pháp hữu kiến, pháp vô kiến, hoặc pháp hữu sắc, pháp vô sắc, hoặc pháp cộng, pháp bất cộng, hoặc pháp Thanh-văn, hoặc pháp Độc-giác, hoặc pháp Bồ-tát, hoặc pháp Như Lai. Vô lượng trăm ngàn pháp môn như vậy, đều tóm thâu trong đó. Lại do các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy khéo trụ, khéo trụ pháp không nội, khéo trụ pháp không ngoại, khéo trụ pháp không nội ngoại, khéo trụ pháp không không, khéo trụ pháp không lớn, khéo trụ pháp không thắng nghĩa, khéo trụ pháp không hữu vi, khéo trụ pháp không vô vi, khéo trụ pháp không rốt ráo, khéo trụ pháp không không biên giới, khéo trụ pháp không tản mạn, khéo trụ pháp không không đổi khác, khéo trụ pháp không bản tánh, khéo trụ pháp không tự tướng, khéo trụ pháp không cộng tướng, khéo trụ pháp không tất cả pháp, khéo trụ pháp không chẳng thể nắm bắt được, khéo trụ pháp không không tánh, khéo trụ pháp tự tánh không, khéo trụ pháp không không tánh tự tánh, hoàn toàn chẳng thấy có người vấn nạn, cũng chẳng thấy có kẻ bị vấn nạn, cũng chẳng thấy có Bát-nhã-ba-la-mật-đa được nói.

Vì vậy cho nên, này Kiều Thi Ca, thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... này do được đại oai thần lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa hộ trì, chẳng bị khuất phục bởi  những vấn nạn của người ngoại đạo.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, giảng giải, sao chép, truyền bá rộng rãi thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, tâm của họ chẳng kinh hoàng, chẳng sợ sệt, chẳng khiếp hãi, tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng lo lắng, ăn năn. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy chẳng thấy có pháp có thể khiến kinh hoàng, sợ sệt, khiếp hãi, chìm đắm và lo lắng, ăn năn.

Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào muốn được vô biên công đức thắng lợi hiện tại như vậy, thì nên đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi, hoặc lại sao chép, trang trí đẹp đẽ, bằng các thứ vật báu rồi dùng các thứ tràng hoa, các thứ hương xoa, hương bột tuyệt diệu, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quí, kỹ nhạc, đèn sáng, hết cả vật sở hữu cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... lấy tâm tương ưng trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi, hoặc lại sao chép, trang trí đẹp đẽ bằng các vật báu, rồi dùng các thứ tràng hoa, các thứ hương xoa, hương bột tuyệt diệu, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quí, kỹ nhạc, đèn sáng, hết cả vật sở hữu cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy thường được cha mẹ, sư trưởng, bà con, bạn bè, trí thức, quốc vương, đại thần và các Sa-môn, Bà-la-môn v.v… thương kính, cũng được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đại Bồ-tát, quả Độc-giác, A-la-hán, Bất-hoàn, Nhất-lai, Dự-lưu v.v… ở vô biên thế giới trong mười phương nhớ nghĩ. Lại được chư Thiên, ma, phạm, nhơn và phi nhơn, A-tố-lạc v.v… trong thế gian thương giúp. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy thành tựu biện tài tối thắng vô đoạn. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa thường không ngừng nghỉ. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy an trụ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp tự tánh không, pháp không không tánh tự tánh thường không ngừng nghỉ. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì thường không ngừng nghỉ. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy an trụ Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo thường không ngừng nghỉ. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc thường không ngừng nghỉ. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy tu hành tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thường không ngừng nghỉ. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy tu hành bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo thường không ngừng nghỉ. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy tu hành pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện thường không ngừng nghỉ. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông thường không ngừng nghỉ. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy tu hành mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng thường không ngừng nghỉ. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả thường không ngừng nghỉ. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy tu hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thường không ngừng nghỉ. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa thường không ngừng nghỉ. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật thường không ngừng nghỉ. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy thành tựu thần thông thù thắng của đại Bồ-tát, dạo chơi các cõi Phật tự tại vô ngại. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy chẳng bị tất cả luận thuyết ngoại đạo hàng phục, mà có khả năng hàng phục các luận thuyết của ngoại đạo.

Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... muốn được công đức thắng lợi không dứt không hết trong hiện tại, vị lai như thế, thì nên đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm ấy, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi, lại nên sao chép, trang trí đẹp đẽ bằng các vật báu, rồi dùng vô lượng các thứ tràng hoa, các thứ hương xoa, hương bột tuyệt diệu, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quí, kỹ nhạc, đèn sáng, hết cả vật sở hữu cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... sao chép Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này, trang trí đẹp đẽ, tôn trí nơi thanh tịnh, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen thì khi ấy chúng trời Tứ-đại-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-ma, trời Đỗ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại ở trong thế giới ba lần ngàn này, vị đã phát tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột, thường đến nơi ấy, chiêm ngưỡng, lễ bái, đọc tụng Bát-nhã-ba-la-mật-đa ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, đi nhiễu bên phải, lễ bái, lễ bái chắp tay lui ra.

Trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội, trời Đại-phạm, trời Quang, trời Thiểu-quang, trời Vô-lượng-quang, trời Cực-quang-tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-Tịnh, trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả có vị đã phát tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột, thường đến nơi ấy chiêm ngưỡng, lễ bái, đọc tụng Bát-nhã-ba-la-mật-đa ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, đi nhiễu bên phải, lễ bái chắp tay lui ra.

Trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời Sắc-cứu-cánh trong cõi trời Tịnh-cư cũng thường đến đó chiêm ngưỡng, lễ bái, đọc tụng Bát-nhã-ba-la-mật-đa ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, đi nhiễu bên phải, lễ bái chắp tay lui ra.

Khi ấy, trong thế giới này có các rồng, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, nhơn phi nhơn v.v… có đại oai đức cũng thường đến đó chiêm ngưỡng, lễ bái, đọc tụng Bát-nhã-ba-la-mật-đa ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, đi nhiễu bên phải, lễ bái chắp tay lui ra.

Lúc bấy giờ, chúng trời Tứ-đại-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-ma, trời Đỗ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại ở vô biên thế giới trong mười phương có vị đã phát tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột thường đến nơi ấy chiêm ngưỡng, lễ bái, đọc tụng Bát-nhã-ba-la-mật-đa ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, đi nhiễu bên phải, lễ bái chắp tay lui ra.

Trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội, trời Đại-phạm, trời Quang, trời Thiểu-quang, trời Vô-lượng-quang, trời Cực-quang-tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-Tịnh, trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả có vị đã phát tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột, thường đến nơi ấy chiêm ngưỡng, lễ bái, đọc tụng Bát-nhã-ba-la-mật-đa ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, đi nhiễu bên phải, lễ bái chắp tay lui ra.

Trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời Sắc-cứu-cánh ở trong cõi trời Tịnh-cư cũng thường đến đó chiêm ngưỡng, lễ bái, đọc tụng Bát-nhã-ba-la-mật-đa ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, đi nhiễu bên phải, chấp tay lui ra.

Khi ấy, các rồng, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, nhơn phi nhơn v.v... có đại oai đức, ở trong thế giới khác, cũng thường đến đó chiêm ngưỡng, lễ bái, đọc tụng Bát-nhã-ba-la-mật-đa ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, đi nhiễu bên phải, lễ bái chắp tay lui ra.

Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy nên nghĩ thế này: Nay có chúng trời Tứ-đại-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-ma, trời Đỗ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại, trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội, trời Đại-phạm, trời Quang, trời Thiểu-quang, trời Vô-lượng-quang, trời Cực-quang-tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-tịnh, trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả, trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời Sắc-cứu-cánh và vô lượng các rồng, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, nhơn phi nhơn v.v... có đại oai đức ở trong thế giới ba lần ngàn này và vô biên thế giới khác trong mười phương, thường đến đó chiêm ngưỡng, lễ bái, đọc tụng sao chép Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm của ta, rồi cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, đi nhiễu bên phải, lễ bái chắp tay lui ra. Đó là ta đã vì ta mà thiết bày sự bố thí pháp, nghĩ như vậy rồi, vui mừng nhảy nhót, khiến cho phước đức có được lại tăng thêm lên.

Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy vì được chúng trời Tứ-đại-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-ma, trời Đỗ sử đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại, trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội, trời Đại-phạm, trời Quang, trời Thiểu-quang, trời Vô-lượng-quang, trời Cực-quang-tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-tịnh, trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả, trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời Sắc-cứu-cánh và vô lượng các rồng, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, nhơn phi nhơn v.v... có đại oai đức ở trong thế giới ba lần ngàn này và vô biên thế giới khác trong mười phương, thường đến nơi đó, đi theo ủng hộ, chẳng bị tất cả loài người chẳng phải người v.v… làm não hại, chỉ trừ nghiệp nhơn ác cố định ở đời trước, ở hiện tại đã chín mùi, hoặc chuyển trọng nghiệp để đời này chịu nhẹ.

Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, do oai thần lực lớn của Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, mà có được các thứ công đức thắng lợi trong đời hiện tại như thế. Đó là chư thiên v.v… có vị đã phát tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột, hoặc có vị quy y Phật pháp có được sự lợi lạc thù thắng, vì kính trọng Pháp nên thường đến đó, đi theo ủng hộ, tăng thêm thế lực. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy đã phát tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột, thường vì cứu giúp các hữu tình, thường vì thành thục các hữu tình, thường chẳng xả bỏ các hữu tình, thường vì lợi lạc các hữu tình. Chư thiên v.v... kia cũng lại như vậy, do nhân duyên này, thường theo ủng hộ.

 

Quyển thứ 126

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 5702)
Nói đến thơ và nền Triết Học lưu xuất từ Tư Tưởng Phật học Tánh Không hay một Triết lý phiêu bồng từ Đông sang Tây của thế tục đế, hầu như đã được tồn đọng trong con người gầy guộc, nhỏ nhắn, dáng dấp phiêu diêu, lãng đãng như sương sớm, mây chiều.
29/03/2013(Xem: 5497)
Những năm tháng dùi mài kinh điển trong các tự viện để thể nhập Phật học huyền vi, u hiển, một thời nào đó đã lầu thông giáo lý cao siêu giải thoát, hướng thân lập mệnh trên con đường giác ngộ, để rồi hôm nay là thành quả hiển nhiên có được tận cùng tâm hồn sâu thẳm mà Thầy đang phô diễn như ý nghĩa cao siêu của Đại Bi Tâm.
29/03/2013(Xem: 5767)
Đây là chủ đề bài thuyết trình của diễn giả Nguyên Siêu, tác giả 650 trang sách trong tác phẩm “Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ, Và Phương Trời Mộng” tập 1 và tập 2 vừa hoàn thành và được chính thức ra mắt tại hội trường của Hiệp Hội Người Việt tại San Diego, miền Nam California.
29/03/2013(Xem: 11908)
Tôi người Quảng Bình, 1 trong 3 nơi mà Huyền Trân công chúa mới đáng là thành hoàng. Tổ tiên gốc người Hải dương, 4 cha con cùng có mặt trong đạo quân tiếp quản Quảng Bình, rồi định cư ở 3 làng. Thuận Lý là con trưởng, kế đó, Phương Xuân là con thứ 2. Diêm điền, làng tôi, là nơi Tổ của làng tôi cùng con út định cư.Làng tôi cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng bình chỉ có chừng 600 mét đường chim bay.
27/03/2013(Xem: 11848)
Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 01 (2007, Canada) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 02 (2008, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 03 (2019, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 04 (2010, Đức) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 05 (2011, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 06 (2012, Úc) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 07 (2013, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 08 (2014, Úc) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 09 (2015, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 10 (2016, Canada) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 11 (2018, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 12 (2020, Úc)
18/03/2013(Xem: 6274)
Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam, trước năm 1975 là một trung tâm văn hóa Phật giáo nổi tiếng lừng lẫy. Nơi đây đã quy tụ biết bao hào kiệt trượng phu, biết bao tao nhân mặc khách, biết bao giáo sư, triết gia cự phách thượng đẳng. Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị, xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên bầu trời văn nghệ Việt Nam và thế giới.
11/03/2013(Xem: 6977)
Lê Quý Đôn (1726-1784) là một danh sĩ, nhà văn hóa, sử gia, sống vào đời Hậu Lê. Ông không những ba lần thi đều đỗ đầu, kinh qua nhiều chức quan, đã từng đi sứ sang Trung Quốc, mà còn là một nhà bác học, đã để lại một gia tài đồ sộ bao gồm khoảng 16 tác phẩm và nhiều thơ, phú bằng chữ Nôm khác. [1] Trong số những tác phẩm ấy, có Kiến văn tiểu lục, [2] là một tác phẩm dành riêng quyển 9 – thiên Thiền dật, để viết về Phật giáo và Thiền tông Phật giáo Việt Nam, chủ yếu là những vị Tổ thuộc Thiền phái Trúc lâm. Trong bài viết ngắn này, chúng ta thử chỉ tìm hiểu quan điểm của Lê Quý Đôn về Phật giáo, mà không bàn sâu đến phần Thiền tông Việt Nam mà ông đã chép.
21/02/2013(Xem: 7572)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái. Ngài sinh trưởng trong một gia đình Nho phong. Thân phụ Ngài tinh thông Hán học. Cả hai ông bà lại rất thâm tín Phật pháp. Do đó, Ngài được hấp thụ ngay từ thuở ấu thơ hai nền văn hóa cổ truyền của dân tộc là Khổng giáo và Phật giáo.
19/02/2013(Xem: 8965)
Mới đây các nhà khảo cổ Mỹ và Canada đưa ra chứng cứ cho rằng Phật giáo đã được truyền vào Mỹ trước khi ông Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên, theo các tài liệu có được hiện nay thì Phật giáo chỉ thật sự có mặt tại Mỹ sau kỳ Đại hội Tôn giáo Thế giới tổ chức tại bang Chicago vào năm 1893. Nhưng ai là người có công truyền bá và làm lớn mạnh "hạt giống Bồ đề" trên đất Mỹ? Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số nhà sư cư sĩ người châu Á, những người tiên phong có công đặt nền móng xây dựng ngôi nhà chánh pháp trên đất Mỹ.
10/02/2013(Xem: 10249)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]