Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 73: Phẩm Quán Hạnh 4

07/07/201515:25(Xem: 14382)
Quyển 73: Phẩm Quán Hạnh 4

Kinh Dai Bat Nha- HT Thich Tri Nghiem_2_a

Tập 02
Quyển 73
Phẩm Quán Hạnh 4
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí

 

 

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Vì duyên cớ gì mà nói là sắc v.v… chẳng sanh thì chẳng phải là sắc v.v…?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc và tánh của sắc là không; trong tánh không này không có sanh, không có sắc. Thọ, tưởng, hành, thức và tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không; trong tánh không này, không có sanh, không có thọ, tưởng, hành, thức.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói sắc chẳng sanh thì chẳng phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng sanh thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ và tánh của nhãn xứ là không; trong tánh không này không có sanh, không có nhãn xứ. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không; trong tánh không này không có sanh, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là nhãn xứ chẳng sanh thì chẳng phải là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng sanh thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ và tánh của sắc xứ là không; trong tánh không này không có sanh, không có sắc xứ. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không; trong tánh không này không có sanh, không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là sắc xứ chẳng sanh thì chẳng phải là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng sanh thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới và tánh của nhãn giới là không; trong tánh không này không có sanh, không có nhãn giới. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có sanh, không có sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là nhãn giới chẳng sanh thì chẳng phải là nhãn giới; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh thì chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới và tánh của nhĩ giới là không; trong tánh không này không có sanh, không có nhĩ giới. Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra và tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có sanh, không có thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là nhĩ giới chẳng sanh thì chẳng phải là nhĩ giới; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh thì chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới và tánh của tỷ giới là không; trong tánh không này không có sanh, không có tỷ giới. Hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra và tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có sanh, không có hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là tỷ giới chẳng sanh thì chẳng phải là tỷ giới; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh thì chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới và tánh của thiệt giới là không; trong tánh không này không có sanh, không có thiệt giới. Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra và tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có sanh, không có vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là thiệt giới chẳng sanh thì chẳng phải là thiệt giới; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh thì chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Thân giới và tánh của thân giới là không; trong tánh không này không có sanh, không có thân giới. Xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra và tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có sanh, không có xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là thân giới chẳng sanh thì chẳng phải là thân giới; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh thì chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Ý giới và tánh của ý giới là không; trong tánh không này không có sanh, không có ý giới. Pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra và tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có sanh, không có pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là ý giới chẳng sanh thì chẳng phải là ý giới; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh thì chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Địa giới và tánh của địa giới là không; trong tánh không này không có sanh, không có địa giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không; trong tánh không này không có sanh, không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là địa giới chẳng sanh thì chẳng phải là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng sanh thì chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ và tánh của Thánh đế khổ là không; trong tánh không này không có sanh, không có Thánh đế khổ. Thánh đế tập, diệt, đạo và tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không; trong tánh không này không có sanh, không có Thánh đế tập, diệt, đạo.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là Thánh đế khổ chẳng sanh thì chẳng phải là Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng sanh thì chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo.

Xá Lợi Tử! Vô minh và tánh của vô minh là không; trong tánh không này không có sanh, không có vô minh. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não và tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không; trong tánh không này không có sanh, không có hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là vô minh chẳng sanh thì chẳng phải là vô minh; hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng sanh thì chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Xá Lợi Tử! Cái không nội và tánh của cái không nội là không; trong tánh không này không có sanh, không có cái không nội. Cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh và tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là không; trong tánh không này không có sanh, không có cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là cái không nội chẳng sanh thì chẳng phải là cái không nội; cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh chẳng sanh thì chẳng phải là cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa và tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không; trong tánh không này không có sanh, không có bố thí Ba-la-mật-đa. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa và tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa là không; trong tánh không này không có sanh, không có tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là bố thí Ba-la-mật-đa chẳng sanh thì chẳng phải là bố thí Ba-la-mật-đa; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng sanh thì chẳng phải là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự và tánh của bốn tịnh lự là không; trong tánh không này không có sanh, không có bốn tịnh lự. Bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không; trong tánh không này không có sanh, không có bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là bốn tịnh lự chẳng sanh thì chẳng phải là bốn tịnh lự; bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng sanh thì chẳng phải là bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát và tánh của tám giải thoát là không; trong tánh không này không có sanh, không có tám giải thoát. Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ và tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không; trong tánh không này không có sanh, không có tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là tám giải thoát chẳng sanh thì chẳng phải là tám giải thoát; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng sanh thì chẳng phải là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ và tánh của bốn niệm trụ là không; trong tánh không này không có sanh, không có bốn niệm trụ. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo và tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không; trong tánh không này không có sanh, không có bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là bốn niệm trụ chẳng sanh thì chẳng phải là bốn niệm trụ; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng sanh thì chẳng phải là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không và tánh của pháp môn giải thoát không là không; trong tánh không này không có sanh, không có pháp môn giải thoát không. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không; trong tánh không này không có sanh, không có pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là pháp môn giải thoát không chẳng sanh thì chẳng phải là pháp môn giải thoát không; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng sanh thì chẳng phải là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt và tánh của năm loại mắt là không; trong tánh không này không có sanh, không có năm loại mắt. Sáu phép thần thông và tánh của sáu phép thần thông là không; trong tánh không này không có sanh, không có sáu phép thần thông.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là năm loại mắt chẳng sanh thì chẳng phải là năm loại mắt; sáu phép thần thông chẳng sanh thì chẳng phải là sáu phép thần thông.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật và tánh của mười lực của Phật là không; trong tánh không này không có sanh, không có mười lực của Phật. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng và tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không; trong tánh không này không có sanh, không có bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là mười lực của Phật chẳng sanh thì chẳng phải là mười lực của Phật; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng sanh thì chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Xá Lợi Tử! Chơn như và tánh của chơn như là không; trong tánh không này không có sanh, không có chơn như. Pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì và tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là không; trong tánh không này không có sanh, không có pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là chơn như chẳng sanh thì chẳng phải là chơn như; pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng sanh thì chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Xá Lợi Tử! Quả vị giác ngộ cao tột và tánh của quả vị giác ngộ cao tột là không; trong tánh không này không có sanh, không có quả vị giác ngộ cao tột. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tánh của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không; trong tánh không này không có sanh, không có trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là quả vị giác ngộ cao tột chẳng sanh thì chẳng phải là quả vị giác ngộ cao tột; trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng sanh thì chẳng phải là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất và tánh của pháp không quên mất là không; trong tánh không này không có sanh, không có pháp không quên mất. Tánh luôn luôn xả và tánh của tánh luôn luôn xả là không; trong tánh không này không có sanh, không có tánh luôn luôn xả.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là pháp không quên mất chẳng sanh thì chẳng phải là pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả chẳng sanh thì chẳng phải là tánh luôn luôn xả.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni và tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không; trong tánh không này không có sanh, không có tất cả pháp môn Đà-la-ni. Tất cả pháp môn Tam-ma-địa và tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không; trong tánh không này không có sanh, không có tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng sanh thì chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng sanh thì chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Vì duyên cớ gì mà nói là sắc v.v… chẳng diệt thì chẳng phải là sắc v.v…?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc và tánh của sắc là không; trong tánh không này không có diệt, không có sắc. Thọ, tưởng, hành, thức và tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không; trong tánh không này không có diệt, không có thọ, tưởng, hành, thức.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói sắc chẳng diệt thì chẳng phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng diệt thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ và tánh của nhãn xứ là không; trong tánh không này không có diệt, không có nhãn xứ. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không; trong tánh không này không có diệt, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là nhãn xứ chẳng diệt thì chẳng phải là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng diệt thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ và tánh của sắc xứ là không; trong tánh không này không có diệt, không có sắc xứ. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không; trong tánh không này không có diệt, không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là sắc xứ chẳng diệt thì chẳng phải là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng diệt thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới và tánh của nhãn giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có nhãn giới. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có diệt, không có sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là nhãn giới chẳng diệt thì chẳng phải là nhãn giới; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt thì chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới và tánh của nhĩ giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có nhĩ giới. Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra và tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có diệt, không có thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là nhĩ giới chẳng diệt thì chẳng phải là nhĩ giới; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt thì chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới và tánh của tỷ giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có tỷ giới. Hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra và tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có diệt, không có hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là tỷ giới chẳng diệt thì chẳng phải là tỷ giới; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt thì chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới và tánh của thiệt giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có thiệt giới. Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra và tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có diệt, không có vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là thiệt giới chẳng diệt thì chẳng phải là thiệt giới; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt thì chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Thân giới và tánh của thân giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có thân giới. Xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra và tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có diệt, không có xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là thân giới chẳng diệt thì chẳng phải là thân giới; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt thì chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Ý giới và tánh của ý giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có ý giới. Pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra và tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có diệt, không có pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là ý giới chẳng diệt thì chẳng phải là ý giới; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt thì chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Địa giới và tánh của địa giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có địa giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là địa giới chẳng diệt thì chẳng phải là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng diệt thì chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ và tánh của Thánh đế khổ là không; trong tánh không này không có diệt, không có Thánh đế khổ. Thánh đế tập, diệt, đạo và tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không; trong tánh không này không có diệt, không có Thánh đế tập, diệt, đạo.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là Thánh đế khổ chẳng diệt thì chẳng phải là Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng diệt thì chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo.

Xá Lợi Tử! Vô minh và tánh của vô minh là không; trong tánh không này không có diệt, không có vô minh. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não và tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không; trong tánh không này không có diệt, không có hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là vô minh chẳng diệt thì chẳng phải là vô minh; hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng diệt thì chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Xá Lợi Tử! Cái không nội và tánh của cái không nội là không; trong tánh không này không có diệt, không có cái không nội. Cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh và tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là không; trong tánh không này không có diệt, không có cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là cái không nội chẳng diệt thì chẳng phải là cái không nội; cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh chẳng diệt thì chẳng phải là cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa và tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không; trong tánh không này không có diệt, không có bố thí Ba-la-mật-đa. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa và tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa là không; trong tánh không này không có diệt, không có tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là bố thí Ba-la-mật-đa chẳng diệt thì chẳng phải là bố thí Ba-la-mật-đa; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng diệt thì chẳng phải là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự và tánh của bốn tịnh lự là không; trong tánh không này không có diệt, không có bốn tịnh lự. Bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không; trong tánh không này không có diệt, không có bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là bốn tịnh lự chẳng diệt thì chẳng phải là bốn tịnh lự; bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng diệt thì chẳng phải là bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát và tánh của tám giải thoát là không; trong tánh không này không có diệt, không có tám giải thoát. Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ và tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không; trong tánh không này không có diệt, không có tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là tám giải thoát chẳng diệt thì chẳng phải là tám giải thoát; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng diệt thì chẳng phải là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ và tánh của bốn niệm trụ là không; trong tánh không này không có diệt, không có bốn niệm trụ. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo và tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không; trong tánh không này không có diệt, không có bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là bốn niệm trụ chẳng diệt thì chẳng phải là bốn niệm trụ; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng diệt thì chẳng phải là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không và tánh của pháp môn giải thoát không là không; trong tánh không này không có diệt, không có pháp môn giải thoát không. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không; trong tánh không này không có diệt, không có pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là pháp môn giải thoát không chẳng diệt thì chẳng phải là pháp môn giải thoát không; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng diệt thì chẳng phải là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt và tánh của năm loại mắt là không; trong tánh không này không có diệt, không có năm loại mắt. Sáu phép thần thông và tánh của sáu phép thần thông là không; trong tánh không này không có diệt, không có sáu phép thần thông.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là năm loại mắt chẳng diệt thì chẳng phải là năm loại mắt; sáu phép thần thông chẳng diệt thì chẳng phải là sáu phép thần thông.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật và tánh của mười lực của Phật là không; trong tánh không này không có diệt, không có mười lực của Phật. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng và tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không; trong tánh không này không có diệt, không có bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là mười lực của Phật chẳng diệt thì chẳng phải là mười lực của Phật; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng diệt thì chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Xá Lợi Tử! Chơn như và tánh của chơn như là không; trong tánh không này không có diệt, không có chơn như. Pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì và tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là không; trong tánh không này không có diệt, không có pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là chơn như chẳng diệt thì chẳng phải là chơn như; pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng diệt thì chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Xá Lợi Tử! Quả vị giác ngộ cao tột và tánh của quả vị giác ngộ cao tột là không; trong tánh không này không có diệt, không có quả vị giác ngộ cao tột. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tánh của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không; trong tánh không này không có diệt, không có trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là quả vị giác ngộ cao tột chẳng diệt thì chẳng phải là quả vị giác ngộ cao tột; trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng diệt thì chẳng phải là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất và tánh của pháp không quên mất là không; trong tánh không này không có diệt, không có pháp không quên mất. Tánh luôn luôn xả và tánh của tánh luôn luôn xả là không; trong tánh không này không có diệt, không có tánh luôn luôn xả.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là pháp không quên mất chẳng diệt thì chẳng phải là pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả chẳng diệt thì chẳng phải là tánh luôn luôn xả.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni và tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không; trong tánh không này không có diệt, không có tất cả pháp môn Đà-la-ni. Tất cả pháp môn Tam-ma-địa và tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không; trong tánh không này không có diệt, không có tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng diệt thì chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng diệt thì chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Vì duyên cớ gì mà nói là sắc v.v… bất nhị thì chẳng phải là sắc v.v…?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Hoặc sắc, hoặc bất nhị; hoặc thọ, tưởng, hành, thức, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói sắc bất nhị thì chẳng phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức bất nhị thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.

Xá Lợi Tử! Hoặc nhãn xứ, hoặc bất nhị; hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là nhãn xứ bất nhị thì chẳng phải là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ bất nhị thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Xá Lợi Tử! Hoặc sắc xứ, hoặc bất nhị; hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là sắc xứ bất nhị thì chẳng phải là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ bất nhị thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Xá Lợi Tử! Hoặc nhãn giới, hoặc bất nhị; hoặc sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là nhãn giới bất nhị thì chẳng phải là nhãn giới; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra bất nhị thì chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Hoặc nhĩ giới, hoặc bất nhị; hoặc thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là nhĩ giới bất nhị thì chẳng phải là nhĩ giới; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra bất nhị thì chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Hoặc tỷ giới, hoặc bất nhị; hoặc hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là tỷ giới bất nhị thì chẳng phải là tỷ giới; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra bất nhị thì chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Hoặc thiệt giới, hoặc bất nhị; hoặc vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là thiệt giới bất nhị thì chẳng phải là thiệt giới; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra bất nhị thì chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Hoặc thân giới, hoặc bất nhị; hoặc xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là thân giới bất nhị thì chẳng phải là thân giới; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra bất nhị thì chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Hoặc ý giới, hoặc bất nhị; hoặc pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là ý giới bất nhị thì chẳng phải là ý giới; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra bất nhị thì chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Hoặc địa giới, hoặc bất nhị; hoặc thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là địa giới bất nhị thì chẳng phải là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới bất nhị thì chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Xá Lợi Tử! Hoặc Thánh đế khổ, hoặc bất nhị; hoặc Thánh đế tập, diệt, đạo, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là Thánh đế khổ bất nhị thì chẳng phải là Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo bất nhị thì chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo.

Xá Lợi Tử! Hoặc vô minh, hoặc bất nhị; hoặc hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là vô minh bất nhị thì chẳng phải là vô minh; hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não bất nhị thì chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không nội, hoặc bất nhị; hoặc cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là cái không nội bất nhị thì chẳng phải là cái không nội; cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh bất nhị thì chẳng phải là cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.

Xá Lợi Tử! Hoặc bố thí Ba-la-mật-đa, hoặc bất nhị; hoặc tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là bố thí Ba-la-mật-đa bất nhị thì chẳng phải là bố thí Ba-la-mật-đa; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa bất nhị thì chẳng phải là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Hoặc bốn tịnh lự, hoặc bất nhị; hoặc bốn vô lượng, bốn định vô sắc, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là bốn tịnh lự bất nhị thì chẳng phải là bốn tịnh lự; bốn vô lượng, bốn định vô sắc bất nhị thì chẳng phải là bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Xá Lợi Tử! Hoặc tám giải thoát, hoặc bất nhị; hoặc tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là tám giải thoát bất nhị thì chẳng phải là tám giải thoát; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ bất nhị thì chẳng phải là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Xá Lợi Tử! Hoặc bốn niệm trụ, hoặc bất nhị; hoặc bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là bốn niệm trụ bất nhị thì chẳng phải là bốn niệm trụ; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo bất nhị thì chẳng phải là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Xá Lợi Tử! Hoặc pháp môn giải thoát không, hoặc bất nhị; hoặc pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là pháp môn giải thoát không bất nhị thì chẳng phải là pháp môn giải thoát không; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện bất nhị thì chẳng phải là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Xá Lợi Tử! Hoặc năm loại mắt, hoặc bất nhị; hoặc sáu phép thần thông, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là năm loại mắt bất nhị thì chẳng phải là năm loại mắt; sáu phép thần thông bất nhị thì chẳng phải là sáu phép thần thông.

Xá Lợi Tử! Hoặc mười lực của Phật, hoặc bất nhị; hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là mười lực của Phật bất nhị thì chẳng phải là mười lực của Phật; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng bất nhị thì chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Xá Lợi Tử! Hoặc chơn như, hoặc bất nhị; hoặc pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là chơn như bất nhị thì chẳng phải là chơn như; pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì bất nhị thì chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Xá Lợi Tử! Hoặc quả vị giác ngộ cao tột, hoặc bất nhị; hoặc trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là quả vị giác ngộ cao tột bất nhị thì chẳng phải là quả vị giác ngộ cao tột; trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng bất nhị thì chẳng phải là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Xá Lợi Tử! Hoặc pháp không quên mất, hoặc bất nhị; hoặc tánh luôn luôn xả, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là pháp không quên mất bất nhị thì chẳng phải là pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả bất nhị thì chẳng phải là tánh luôn luôn xả.

Xá Lợi Tử! Hoặc tất cả pháp môn Đà-la-ni, hoặc bất nhị; hoặc tất cả pháp môn Tam-ma-địa, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là tất cả pháp môn Đà-la-ni bất nhị thì chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tam-ma-địa bất nhị thì chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Quyển thứ 73

Hết

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/10/2019(Xem: 4576)
Viện chủ TỔ ĐÌNH SẮC TỨ TỪ QUANG (Đá Trắng - Phú Yên) Hòa thượng Thích Phúc Hộ, thế danh là Huỳnh Văn Nghĩa, sinh ngày 24 tháng 7 năm Giáp Thìn (1904) đời vua Thành Thái năm thứ 16 tại làng Triều Sơn, xã Xuân Thọ, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Song thân của Ngài là cụ ông Huỳnh Trung và cụ bà Trần Thị Nho.
20/10/2019(Xem: 6718)
Thân thế: Cố Đại đức thế danh Lê Quý Trúc Bảo, sanh vào ngày 23/3/1975 trong một gia đình nhiều đời theo Phật. Trong lần gia đình di cư đầu tiên vào Nam, song thân đã sinh Đại đức (ĐĐ) tại Tam Bình, Thủ Đức, Gia Định. Thân phụ là ông Lê Quý Triết, Thân mẫu là bà Hoàng Thị Tựu; nguyên quán Trà Trì, Hải Xuân, Hải Lăng, Quảng Trị. ĐĐ sinh ra trong gia đình có 8 anh em gồm 3 người anh trai, 2 em gái và 2 người em trai. Sau 30/4/1975 gia đình trở về nguyên quán Trà Trì, Quảng Trị. Đến tháng 7/1977 gia đình của cố ĐĐ lại một lần nữa di cư vào Nam và trú ở vùng kinh tế mới tại Châu Thành, Đồng Nai. - năm 1981-1986, cố ĐĐ học trường Tiểu học Quảng Thành, Châu Thành, Đồng Nai - năm 1986-1990, cố ĐĐ học trường Trung học cơ sở Kim Long, Châu Thành, Đồng Nai.
20/10/2019(Xem: 4615)
Hòa thượng sinh ra và lớn lên trong một gia đình khoa bảng nho học, nhưng dường như vốn có túc duyên nhiều đời với Phật pháp nên từ lúc thiếu thời khi còn đi học tại trường Trung học Dũng Lạc Hà Tây, Hòa thượng đã có xu hướng tìm hiểu Phật giáo. Đến năm 19 tuổi (1953) Ngài lặng lẽ từ biệt gia đình cùng người thân, từ giã nơi chôn nhau cắt rốn lần bước đi tìm thầy xuất gia cầu Đạo để hoàn thành ước nguyện của mình.
20/10/2019(Xem: 4983)
CỐ TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ HẢI Thành viên Hội Đồng Chứng Minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Quảng Trị Nguyên Phó trưởng ban Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Quảng Trị Trú trì Tổ đình Sắc tứ Tịnh Quang – Quảng Trị; Tổ đình Hải Đức – Huế THÂN THẾ Hòa thượng họ Võ, húy Viết Hữu, nối pháp dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 41, pháp danh Không Cẩn, tự Trí Hải. Hòa thượng sinh năm Tân Tỵ [1941] tại thôn Phương Lang, xã Hải Ba, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Hòa Thượng xuất thân trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo, thân phụ là Cụ ông Võ Viết Linh – pháp danh Nguyên Minh, thân mẫu là Cụ bà Nguyễn Thị Diệm – pháp danh Nguyên Huệ. Ngài là người con út trong gia đình có 8 anh chị em.
20/10/2019(Xem: 7574)
Hòa thượng là người làng Triều Thủy, xã Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Tên thật là Nguyễn Đình Hiệp, sinh năm 1938, mất năm 1973 tại Sài Gòn. Sinh trong một gia đình thuần Phật có 9 anh em 4 trai 5 gái mà Hòa thượng là con út. Thân phụ là cụ Nguyễn Đình Thắng, pháp danh Tâm Minh, tự Diệu Dụng. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Lang, pháp danh Tâm Lạc.
20/10/2019(Xem: 5099)
Cố Đại Lão Hoà Thượng Thích Hộ Giác (1928 – 2012) – Phó Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. – Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam. – Nguyên Tổng Thư Ký Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam. – Nguyên Thành Viên Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo. – Nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Cư Sỹ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. – Nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. – Nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Xã Hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. – Nguyên Phó Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. – Nguyên Tổng Thư Ký Hội Đồng Lãnh Đạo GHPGVNTN Hải Ngoại. – Nguyên Chủ Tịch Văn Phòng II Viện Hoá Đạo GHPGVNTN Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ. – Nguyên Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam Tại Hoa Kỳ. – Viện chủ Tổ Đình (PHV) Pháp Quang; chùa Nam Tông; chùa Xá Lợi Phật Đài (Việt Nam). – Viện chủ Pháp Luân Tự, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ.
20/10/2019(Xem: 5151)
Hòa thượng đạo hiệu Thích Minh Cảnh, thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 40. Hòa thượng thế danh Nguyễn Hữu Danh, sinh ngày 12-11-Đinh Sửu (1937) tại làng Mỹ Tho, quận Cao Lãnh (Đồng Tháp). Hòa thượng xuất thân trong gia đình kính tin Tam bảo, thân phụ là cụ ông Nguyễn Minh Biện, pháp danh Minh Chiếu, thân mẫu là cụ bà Trần Thị Mậu, pháp danh Diệu Thiệt. Hòa thượng là người con út, là con thứ 9 (miền Nam gọi là thứ 10) trong gia đình có 9 anh chị em, với bốn người anh, chị xuất gia tu học.
20/10/2019(Xem: 4570)
TIỂU SỬ HÒA THƯỢNG GIỚI NGHIÊM (THITASÌLA MAHATHERA) (1921 - 1984) Nguyên: - Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravàda) Việt Nam. - Thành viên Hội Đồng Chứng Minh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. - Phó Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. - Phó Chủ Tịch Hội Hữu Nghị Việt Nam - Campuchia.
20/10/2019(Xem: 16693)
Hòa thượng Giác Khang thế danh Tô Văn Vinh sinh năm 1941 tại tỉnh Bạc Liêu. Thân sinh là cụ ông Tô Khanh. Thân mẫu là cụ bà Trần Thị Vén. Gia đình có 5 trai, 5 gái. Hòa thượng là con thứ 8 trong gia đình. Hòa thượng tốt nghiệp Tú Tài và học Cao đẳng Sư phạm. Ra trường đi dạy học ở Cái Côn – Cần Thơ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]