Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lãng đãng một Khuất Nguyên ở Cụ Thiều Chữu

09/04/201319:06(Xem: 6830)
Lãng đãng một Khuất Nguyên ở Cụ Thiều Chữu



KỶ NIỆM 100 NĂM NGÀY SINH

LÃNG ÐÃNG MỘT KHUẤT NGUYÊN Ở CỤ THIỀU CHỬU

Thích Ðồng Bổn

---o0o---

Khi viết về ông, tôi vẫn còn nguyên xúc động của lần đầu ra xứ Bắc tìm dấu tích về nhà trí thức Phật học này cho công trình biên khảo Chư tiền bối hữu công mà tôi đang thực hiện.Những mãng huyền thoại về cuộc đời của ông tôi được nghe qua nhiều người kể lại, mỗi nơi một ít, mỗi người thuật mỗi cách, đã gây cho tôi nhiều trăn trở, nghĩ suy và qua đó cảm nhận sâu sắc hơn về một nhân vật nhiều tài năng mà cũng đầy bất hạnh này. Nghĩ về ông nhân 100 ngày sinh, tôi muốn nói về chất “Sĩ” nơi ông được thể hiện qua năm khía cạnh:

- Thiều Chửu : một “Nho Sĩ” mang chí hướng tải đạo hóa đời.

Vốn xuất thân từ một gia đình bần nông, hơn ai hết ông tất thấm thía cảnh nghèo khổ do bị địa chủ và thực dân áp bức bóc lột. Chính vì thế ông quyết tâm tự học chữ Hán nơi bà Nội của ông với ý nghĩ sẽ mang cái chữ giúp ích cho đờiù. Vốn là một nhà nho , ông tự học thêm các ngoại ngữ Anh, Pháp, Nhật để không bị lạc hậu và để tiếp thu các luồng tư tưởng của thời đại từ khắp nơi trên thế giớùi. Theo gương cha là cụ Cử Cầu – tức nhà Chí sĩ Giản Thạch trong phong trào Ðông kinh Nghĩa thục - ông trở thành một chiến sĩ trên mặt trận chống giặc mù chữ , cái đã làm cho dân ta không nhận thấy con đường sáng vượt qua đói nghèo và con đường cứu nước thoát khỏi cảnh nô lệ ngoại bang của thực dân đế quốc, cụ thể là việc ông cùng với các ông: Nguyễn văn Tố, Ðặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp, Phan Thanh, Trần Huy Liệu lập Hội Truyền bá Quốc ngữ hoạt động tại hội quán Trí Tri, phố Hàng Quạt, Hà Nội(1).

Sự nghiệp lớn nhất của Nho sĩ Nguyễn Hữu Kha là tác phẩm “Hán Việt tự điển”, một cuốn tự điển có giá trị ứng dụng xuyên suốt qua nhiều thời đại, là “sách tủ” của mọi tu sĩ Phật giáo trên đường nghiên cứu Tam tạng giáo điển để tu học. Ở lời nói đầu, ông đã viết lên thao thức của mình về Nho học: “Tôi tự nghĩ rằng Hán học thời nay đang ngày một mất dần, chỉ nhờ có học Phật thì may ra mới duy trì được ít nhiều; nếu dùng cách nào mà giúp cho người đọc được kinh biết được chữ, tức là cái nền tảng để xây đắp lại tòa lâu đài Nho giáo nguy nga tráng lệ”(2).Ngoài ra, ông còn những bài viết mang đậm tính cách bộc trực, khẳng khái của một Nho sĩ trong thực hiện sứ mệnh chống cái xấu, cái ác không khoan nhượng . Giớùi Tăng lữ đương thời không theå không suy ngẫm các bài thơ, bài viết cảnh tỉnh người tu Phật của ông, tiêu biểu là những lời lẽ thẳng mà đautrong quyển “Con đường học Phật thế kỷ 20”.

Dù là một Nho sĩ uyên bác nhưng ông không hề quên cội nguồn bần nông của mình nên suốt cuộc đời ông vẫn luôn gắn bó giữa sự nghiệp tri thức với công việc nông trang, nói gọn hơn là một kẻ sĩ làm nông, đó cũng là một nét đặt biệt nơi ông , ít có nơi nhiều nhà Nho khác.

- Thiều Chửu : một trí thức “Cư Sĩ” Phật giáo.

Khi đến với đạo Phật, ông tự nhận mình “ cũng chỉ là một tín đồ tín ngưỡng triết lý mà thôi” trong lời Tự Bạch. Là một nhà Phật học uyên thâm, ông có nhiều hoạt động tỏa sáng trong giai đoạn chấn hưng Phật giáo Bắc kỳ với trên dưới 40 tác phẩm cho Phật giáo. Hàng loạt những dịch phẩm - tác phẩm về Kinh điển và Phật học có giá trị được ra mắt trong thời này, cùng nhiều bài viết sắc xảo đăng trên báo Ðuốc Tuệ, cơ quan ngôn luận của hội Phật giáo Bắc kỳ lúc bấy giờ. Sách và báo đều xuất bản từ nhà in do ông quản lý, mang đậm tính giáo dục và cải cách.

Trước sự suy thoái phẩm chất ở một bộ phận hàng ngũ Tăng đoàn của đạo Phật thời kỳ này, chỉ thiên về danh lợi chức quyền, đến sự xa hoa từ việc bày vẽ cúng bái mê tín mà xem nhẹ nhiệm vụ truyền bá chính pháp và trau giồi đạo đức giải thoát. Bối cảnh thực trạng này được ông miêu tả như sau trong sách “Con đường học Phật thế kỷ 20”:

“ Người tín ngưỡng Phật giáo nước ta hạng trên nhất chỉ tu lấy lợi một mình, mặc kệ đời chẳng thèm nhìn tới; hạng thứ nhì thì mượn cửa chùa làm chốn dung thân dễ dàng qua ngày; hạng dưới nữa thì lại lấy chùa chiền làm chỗ buôn bán kiếm chác, không từ một sự đê hạ, nhơ nhớp nào mà không dám làm”.

Qua ngòi bút của mình ông muốn làm cuộc cải cách nhằm cảnh tỉnh các tệ nạn trên, đem lại sự trong sáng cho giáo lý Phật đà bằng đề nghị thẳng thắn: “Tôi mong rằng các nhà tín ngưỡng Phật giáo nên chú ý vào hai sự này cho: 1 – Nên gánh vác lấy cái trách nhiệm chỉnh đốn Phật giáo, cải lương Phật giáo. 2 – Ðừng theo cái lối tín ngưỡng về mặt tiêu cực mà phải gắng sức tiến sang mặt tích cực ngay đi. Làm trái lại thì chẳng đợi người ta phá chùa đuổi sư mà chính Phật giáo tất phải đi dần đến diệt vong vậy.”(Sđd)

Ông cũng góp sức truyền bá trào lưu học Phật bằng chữ quốc ngữ ở thời kỳ mà sự mù chữ còn phổ cập khắp nhân dân, việc tụng niệm còn bằng phiên âm từ chữ Hán. Ông nói trong lời tựa bản dịch “Kinh A Di Ðà” rằng: “nhưng vì tính ta kém phần tự lập về tinh thần, cho nên cứ vùi đầu với chữ Hán, ít người dám phiên dịch sang tiếng ta. Ta chưa biết rằng những Kinh chữ Hán ta tụng niệm đó có phải là chính tiếng Phật nói đâu”

Chí hướng và tâm nguyện ấy còn thể hiện trong cách ông chọn Ðạo hiệu cho mình: Thiều Chửu và Lạc khổ. Thiều Chửu, có nghĩa là cái chổi quét bụi, ý muốn nói lên những tệ nạn kia chính là bụi dơ làm hoen ố hình ảnh trong sáng của đạo Phật, mà chính ông là cây chổi quét bụi ấy sẽ làm trong sáng giáo hội qua ngòi bút cải cách của mình.Bút danh Thiều Chửu còn một ý nữa, là trước khi sửa người thì phải trong sạch lấy mình, qua sự hàng ngày phải lau quét bụi trần tham nhiễm, đừng để gương lòng vẫn đục bởi phiền não vô minh che lấp , như bài kệ tỏ đạo của Ngài Thần Tú:(3)

Thân thị Bồ đề thọ

Tâm như minh cảnh đài

Thời thời thường phất thức

Vật sử nhạ trần ai.

Tạm dịch :

Thân là cây Bồ đề

Tâm như đài gương sáng

Thường ngày hằng lau quét

Chớ cho dính bụi trần.

Sử dụng bút danh Lạc Khổ là để cảnh tỉnh chính mình và người trên bước đường tìm đến thường–lạc–ngã–tịnh. Lạc Khổ có nghĩa là vui trong khổ, tượng trưng cho pháp hạnh “thiểu dục–tri túc” trong giáo lý căn bản nhà Phật, nghĩa là ít muốn và biết đủ, thể hiện nơi bản thân ông đã sống trọn đời mình qua nếp sống giản dị, đạm bạc, trường trai mỗi ngày chỉ ăn một bữa đúng Ngọ, guốc mộc nâu sòng như ngươi chân quê để làm tấm gương mẫu mực sách tấn học trò của ông rằng, ngay trong hoàn cảnh khổ ấy hay thân phận khổ đau này, con người ta vẫn tìm thấy niềm hạnh phúc an lạc hơn hẳn mọi điều phù phiếm trên đời.

Ý nghĩa nội hàm của từ Lạc Khổ còn là giác ngộ cái khoå ở chỗ: chỉ có trải qua khổ đau (tức khổ đế), mới nhận thức được bản chất và nguyên nhân của khổ (tức tập đế) trong giáo lý căn bản cuûa đạo Phật là Tứ Diệu Ðế (4 chân lý Khổ-Tập-Diệt-Ðạo).Khi con nguời giác ngộ được chân lý của khổ đau, cũng chính là trực nhận sự an lạc vô biên trong giải thoát; cho nên, hạnh phúc hay đau khổ chính là trong nhận thức của mình thôi.

- Thiều Chửu : người mang tấm lòng “Ðại Sĩ”.

Nhờ thấm nhuần tư tưởng nhà Phật từ thuở nhỏ, ông sớm bộc lộ lòng mẫn cảm thương người nghèo khổ khó khăn hơn mình. Cuộc đời ông đã trải qua bao cay đắng khổ cực từ thuở ấu thơ nên dễ đồng cảm với những số phận bất hạnh, như lời ông đã phát thệ rằng: “ Ðời tôi hễ ai thiếu thốn cái gì muốn nhờ tôi, chưa hé miệng tôi đã vâng, có thì giúp, không thì vay giúp, nếu không giúp được thì lòng tôi đau khổ cũng như người không vay được. Tôi mà còn một bát gạo, ai đói hơn, tôi cũng nhường ngay thà tôi chịu nhịn, và chí tôi với sự nhịn hai ba bữa là thường lắm”(Tự Bạch của Thiều Chửu-Sđd)).

Lòng từ bi khiến ông phát tâm noi chí nguyện chư Bồ Tát giúp đời bằng cách gánh vác và chia sẻ bao nỗi bất hạnh của thời loạn ly, như những việc: chủ trương lập hội Tế sinh nuôi trẻ bị mồ côi; đứng ra lo việc chôn cất cho hàng trăm người bị chết vì nạn đói kém; tổ chức các lớp học cho trẻ bị lạc mất cha mẹ vì chiến cuộc; lập nhà dưỡng lão, nghĩa trang Tế độ và không nề khó khăn gian khổ đưa các em đi tản cư lánh giặc ra vùng tự do v.v. . . Ông còn dạy người làm thuốc Ðông y, tự tay chữa bệnh cho bất cứ ai cần đến không nề hà công sức, còn tổ chức cày cấy ruộng nương, trồng trọt khoai sắn để tự túc kinh tế nuôi dưỡng các em đến trưởng thành.Các việc làm ấy ông xem là sự nghiệp cả đời ông , như ông đã viết tiếp trong lời Tự bạch: “Sau đó, tôi không hề nghĩ đến cái đời riêng của tôi nữa; người ta cho là tôi tin đạo Phật mà không lập gia đình, có biết đâu uẩn khúc của tôi từ thuở còn thơ dại”.

Ông quả là một bậc Ðại sĩ giữa đời thường, một tâm hồn nhân ái giữa cuộc chiến tranh máu lửa của nhân dân để giành chủ quyền đất nước.

- Thiều Chửu : môt nhà “Chí Sĩ” yêu nước.

Hun đúc bởi lòng yêu nước thương nòi, chí căm thù giặc Tây và truyền thống cách mạng của gia đình ( cha ông bị giặc Pháp đày ra Côn Ðảo vì tham gia phong trào kháng Pháp, và những người thân trong gia đình của ông đã chết vì chiến tranh), ông coi việc tận trung tận hiếu vì dân là nghĩa vụ thiêng liêng, như lời ghi ở đầu sách “Con đường học Phật ở thế kỷ 20”: “Phải tận hiếu với nhân dân, nhân dân là cha mẹ bao kiếp, là chư Phật vị lai”. Ta thấy rõ tâm trạng thời trai trẻ của ông trước nỗi đau nước mất nhà tan, lòng căm thù giặc Pháp và bè lũ tai sai đến xương tủy qua những câu thơ đề trên vách lăng của tên Việt gian Lê Hoan(4):

“Thanh thần điếu cửu nguyên

Chủng chủng u tình huyên

Thế thái cạnh phú quý

Nhân tình xu ngân tiên

Công cừu ngạch bái thượng

Nghĩa vụ phóng tâm biên”.

Bản dịch của Nguyễn Hải Hoành :

Tinh mơ qua bãi tha ma,

Vong hồn bao kiếp kêu la vang trời.

Bon chen phú quý thói đời,

Lòng người mê mẫn hướng nơi đồng tiền.

Thù chung: trên trán, đưa lên,

Nghĩa vụ: canh cánh không quên trong lòng”.

Ôâng đã chọn vị trí chiến đấu ở hậu phương qua sứ mệnh giáo dục trẻ em và tăng gia sản xuất, đem tri thức của mình giúp ích cho địa phương ở vùng kháng chiến để góp phần vào sự nghiệp cách mạng giải phóng quê hương khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Niềm tin cách mạng tất thắng cộng với tín ngưỡng đạo Phật nơi tâm hồn được ông cảm tác qua bài thơ:

Phen này cắt tóc đi tu,

Tụng kinh Ðộc lập, ở chùa Duy Tân

Ðêm ngày luống những ân cần

Cầu cho ích quốc lợi dân mới là

Cầu cho nước Việt Nam ta

Khắp Trung Nam Bắc một nhà vui chung

Toàn dân kháng chiến thành công

Tự do Hạnh phúc vô cùng vô song.

(Vô Ðề – 1947)

Sự khẳng khái của một Chí sĩ được ông thể hiện qua bài viết cảnh cáo những người Phật giáo làm tai sai cho giặc vào cuối năm 1952(5): “ Nội dung bài ấy có hai phần, phần 1 chỉ rõ tinh thần cách mạng của Phật giáo thuyền tông; phần 2 chỉ rõ chỗ suy kém của Mỹ, và chỉ cho đường về với kháng chiến”. Ông quan niệm, thà khổ sở thiếu thốn trăm bề nơi vùng tự do của kháng chiến, còn hơn sống nhục nơi chốn phồn hoa đô hội do giặc chiếm đóng; quyết liệt hơn, ông dứt khoát không chịu nhận bất kỳ sự trợ giúp nào bắt nguồn từ nội thành gửi ra, khi được Hòa thượng Tố Liên gửi biếu 6 lượng vàng, ông răn dạy học trò của mình rằng: “Chúng ta phải tự lực cánh sinh; người tư do không ăn xin người mất tự do. Vàng của ai cho phải trả lại, dứt khoát tôi không dùng”(Tự Bạch của Thiều Chửu-Sđd). Ðó phải chăng chính là phẩm chất cao thượng của người Chí sĩ ở nơi ông, không còn gì phải bàn luận thêm vậy.

-Thiều Chửu :một nhân cách rạng danh“Tiết Sĩ”.

Trong chính sách xác định thành phần cải tạo ruộng đất năm 1954, do trình độ nhận thức yếu kém của người thực thi và do một số quần chúng dễ bị chi phối bởi các lời tuyên truyền của những phần tử cơ hội rằng những người trí thức đều gốc là thành phần tư sản bóc lột ... ông đã trở thành nạn nhân của một oan án . Là một kẻ sĩ, oÂng đã chọn cái chết để bày tỏ tiết tháo của mình. Tôi được nghe một vị Nhân sĩ giáo phẩm kể lại rằng: sau khi viết thư để lại và dặn dò cùng các học trò của mình, ông đã kết thúc cuộc đời bằng cách thắp hương tạ lễ bốn phương bên bờ sông, sau đó tự quấn chăn vào mình nhảy xuống giòng sông ở đoạn chảy siết để tự trầm.Ðấy cũng là cái dũng khí lớn nhất mà ông đã làm được để giữ gìn phẩm giá ở một người trí thức, để laøm một bài học thức tỉnh những ai còn chưa thấu hiểu đạo lý tình người, để không một ai có thể tùy tiện bóp méo sự thật về ông.

Lấy cái chết để thể hiện hiện tấm lòng trong sạch của mình, mà không hề oán hận người nào, không muốn đổ lỗi cho ai, hoặc bất mãn về đường lối chính sách; trước sau ông vẫn một lòng tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng do chính phủ lãnh đạo, ấy là sự tuẫn tiết của tấm lòng trung kiên, của niềm tin đạo nghĩa vẫn có ở đời, và vì ông vững tin vào thế hệ học trò cùng hậu duệ của mình vẫn sẽ tiếp bước đi theo con đường đúng đắn mà ông đã dạy dỗ ấy, tất sẽ có ngày trả lại công bằng và danh tiết cho mình mai sau.

* * *

Nghĩ về ông, tôi không khỏi bùi ngùi cho thân phận kẻ sĩ đã ỡ vào một giai đoạn lịch sử bi tráng của dân tộc trong thời kỳ đầu giành lại độc lập từ tay ngoại bang. Những lời kể về việc tử tiết của ông gây ấn tượng mạnh mẽ nơi tôi, bởi từ trước tới nay tôi chưa hề nghe thấy sự tuẫn tiết nào đặc biệt và chấn động đến thế. Chính vì thế tôi lặn lội tìm hiểu biên khảo về ông ở thập niên 80 – 90 để viết tiểu sử của ông .Ôâng tự cho trường hợp của ông là cái án “mạc tu hữu” mà Nhạc Phi đời Ðường phải gánh chịu(6) nhưng tôi nghĩ cái chết của ông phảng phất sự tuẫn tiết của Nhà nho Khuất Nguyên nước Sở- thời Chiến quốc, cũng đã nhảy xuống giòng sông Mịch La tự trầm, sau khi để lại câu nói bất hũ : “thế gian này tất cả đều say, chỉ có mình ta là tỉnh”.

Những điều luận bàn quanh năm chất Sĩ : Nho sĩ, Cư sĩ, Ðại sĩ, Chí sĩ và Tiết sĩ của Nguyễn Hữu Kha để khẳng định rằng, Thiều Chửu đối với đạo là một Phật tử có đạo đức mẫu mực; đối với đời là một Nhân sĩ có nhân cách cao đẹp, Cuộc sống và cái chết của ông đã để lại những mến tiếc vô cùng trong lòng những thức giả đương thời và hậu học ngày nay.

Mùa Xuân năm Nhâm Ngọ ở Sài Gòn, tháng 3 - 2002

Thích Ðồng Bổn

Ghi chú:

(1)Theo “Cư sĩ Thiều Chửu – Nguyễn Hữu Kha”, Trần Việt Quang và Nguyễn Hải Trừng, Tài liệu lưu hành nội bộ.

(2)Tự điển Hán Việt, bản in lần thứ nhất của NXB Ðuốc Tuệ, 1942

(3)Phật học Phổ thông khóa thứ V, Thiền tôn, tr.202,Thành hội PG Tp.HCM xb, 1997

(4). Lê Hoan, kẻ đã làm tay sai cho giặc, chỉ huy đánh úp ông Hoàng Hoa Thám –tức cụ Ðề Thám, lãnh đạo khởi nghĩa Yên Thế(Bắc Giang) năm 1913, ông bị tay sai thực dân Pháp ám hại.

(5)Bài viết này ông gửi cho anh Ðường tìm cách phổ biến trong nội thành, sau anh đã bị giặc bắt. Tự Bạch của Thiều Chửu, tr.14. Tài liệu lưu hành nội bộ.

(6)Lời ông viết ở những dòng cuối cùng của bản Tự Bạch–Sđd, nhưng có chỗ cần đính chính là Nhạc Phi ở đời Nam Tống chứ không phải đời Ðường. Tuy nhiên, người viết vẫn trích dẫn nguyên văn.

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2016(Xem: 6217)
Hòa Nhập Ta Bà Bát Thập Tam Thượng Tôn Chánh Pháp Sáu Mươi Năm Như Như Lão Giả Như Như Thật Huệ Đắc Nào Hay Lão Chẳng Tầm Cao Tột Một Đời Thông Cửu Phẩm Đăng Soi Vạn Thuở Sáng Ngàn Năm Phật Đà Tiếp Dẫn Hương Quang Tỏa Quốc Độ Tây Phương Linh Giác Tâm.
23/06/2016(Xem: 30845)
ISBN: 978-0-9945548-4-0 , Ban Tổ Chức Tang Lễ và Môn Đồ Pháp Quyến chúng tôi trân trọng kính báo tin: ĐỨC TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH NHƯ HUỆ Pháp tự Giải Trí, Đạo hiệu Trí Thông, thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 41. - Nguyên Hội Chủ Giáo Hội PGVNTNHN tại UĐL-TTL (1999- 2015) - Chứng Minh Đạo Sư của Giáo Hội; Phương Trượng Tổ Đình Pháp Hoa Nam Úc, Australia. Sinh ngày 02/04/1934 (Giáp Tuất) tại làng Cẩm Phô, TP Hội An, Tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Vừa thuận thế vô thường thâu thần an nhiên thị tịch vào lúc 9.25 tối ngày 23/06/2016 (nhằm ngày 19/5/Bính Thân) tại Tổ Đình Pháp Hoa Nam Úc. Thọ thế: 83 tuổi, 60 Hạ lạp
20/06/2016(Xem: 7956)
Hòa-Thượng pháp húy Nhựt-Thuận, Tự Thiện Lý hiệu Thích Bửu-Thắng thế danh Huỳnh-Văn-Giác., thuộc dòng LÂM-TẾ đời Gia Phổ thứ 41, là đệ tử của Tổ HỒNG-HOA. Ngài sinh năm Đinh Tỵ (1917) tại Thị Xã GÒ-CÔNG Tỉnh TIỀN-GIANG. Thân phụ là cụ HUỲNH VĂN THIỆT, thân mẫu là cụ ĐỖ-THỊ-THẾ. Ngài là con trai độc nhứt trong gia đình khá giả, nên thuở thiếu thời Ngài rất mực phong lưu, cầm, kỳ, thi, họa đều tinh thông nhưng sở trường là môn thi phú. Nhân một dịp lên Sài-Gòn Ngài được xem vở tuồng về Lịch Sử Đức Phật, tâm hồn Ngài tự nhiên biến chuyển, thường suy tư trầm mặc, hình ảnh Đức Phật Thích Ca luôn xuất hiện trong tâm tưởng Ngài. Nhưng hột giống xa xưa vừa được khơi dậy thì lượng sóng của dòng đời cũng bắt đầu lôi cuốn. Theo quan niệm người xưa, quan trọng việc kế thừa hương quả. Năm 16 tuổi trên gương mặt của người thiếu niên còn rạng rỡ nét hồn nhiên thanh thản, Ngài vâng lệnh nghiêm đường tác thành hôn phối.Trong cuộc sống gia đình, tâm tư Ngài luôn luôn tư duy khắckhoải về cái gì ngoà
17/06/2016(Xem: 18307)
Ngài sinh ra để kế thế Sơ Tổ Nhân Tông Ngài hiện thân để khôi phục Thiền Tông Việt Nam Phật Giáo Việt Nam có Thiền Phái Trúc Lâm Rạng rỡ huy hoàng gần ngàn năm lịch sử Ngài sinh ra để chấn tích hưng long nghiệp Tổ Ngài hiện thân để giương trượng chống đỡ Thiền Môn Phật Giáo Việt Nam có sắc thái ửng son Có một chỗ đứng đường đường giữa thiên hà hoàn vũ
14/06/2016(Xem: 7254)
Sư Cô Diệu Huệ đã ra đi thật rồi! Tôi còn bàng hoàng như người vừa tỉnh mộng. Người ra đi chóng thế sao? Chiều hôm kia, khi cùng Thầy Trụ Trì và Tăng Đoàn Chùa Giác Ngộ đến với giây phút tạ từ và trong thời trợ niệm cho Sư Cô tôi thấy Sư Cô biểu hiện xúc động trên khuôn mặt và trong hơi thở gấp gáp. Sư Cô tuy không đủ sức nói hoặc cử động nhiều được nữa nhưng vẫn cảm nhận những âm thanh quen thuộc, cảnh sắc và ý thức được rằng chư Tăng đang vân tập để an ủi, chia sẻ, hộ niệm cho mình trong bước đăng trình. Sắc mặt Sư Cô vẫn còn tươi lắm, thế mà sau khi xong thời Kinh trợ niệm, tôi về phòng và đi công việc trong chốc lát, khi trở về Chùa Giác Ngộ thì hay tin rằng : Sư Cô đã viên tịch. Nhanh thật, mới vào bệnh viện được 2 hôm, hôm qua còn tỉnh táo nói năng nhắn nhủ được, hôm nay đã ra đi rồi…!
09/06/2016(Xem: 13447)
CÁO PHÓ Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Gia đình chúng con, chúng tôi vô cùng thương tiếc, kính báo tin cùng Chư Tôn Đức, Thân Bằng Quyến Thuộc và Bạn Hữu xa gần; Mẹ, Bà của chúng con, chúng tôi là: Chơn Linh Sa Di Ni Bồ Tát Giới Thích Nữ Diệu Niệm Thế danh: NGUYỄN THỊ NỔI Sinh ngày 6/1/1925 tại Quảng Ngãi, Việt Nam Vãng sanh lúc 6am ngày mùng 5-5-Bính Thân (9-6-2016) Tại Melbourne, Úc Châu Thọ thế: 91 tuổi Chương Trình Tang Lễ: - Lễ nhập liệm, Phát tang: lúc 11am, Thứ Bảy:11/06/5/2016 tại Vãng Sanh Đường Tu Viện Quảng Đức, 105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060, Phone:(03) 9357 3544 (sau lễ nhập liệm, lễ cầu siêu và phúng viếng đến 10.pm) - Lễ Cầu Siêu và Phúng viếng: 8am-10pm: Chủ Nhật 12/06/2016 tại Vãng Sanh Đường Tu Viện Quảng Đức, 105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060, Phone:(03) 9357 3544 - Lễ Động Quan: lúc 1pm, Thứ Hai:13/06/2016 ,Linh Cữu được đưa đi hỏa táng tại Nghĩa Trang Fawkner, sau đó gia đình thỉnh Chơn Linh về làm lễ An Sàng và cúng thất tuần tại C
31/05/2016(Xem: 9212)
Trưởng Lão HT Thích Chơn Phát-Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hộ -Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam; -Chứng minh Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Quảng Nam; -Viện chủ Tổ đình Long Tuyền, phường Thanh Hà, Tp. Hội An, tỉnh Quảng Nam. Do niên cao lạp trưởng, Trưởng lão Hòa thượng đã thâu thần viên tịch vào lúc 18giờ00 ngày 28 tháng 5 năm 2016 (nhằm ngày 22 tháng 4 năm Bính Thân) tại Tổ đình Long Tuyền, phường Thanh Hà, Tp. Hội An, tỉnh Quảng Nam. * Trụ thế: 86 năm * Hạ lạp: 59 năm - Lễ nhập kim quan chính thức cử hành vào lúc 17giờ00, ngày 29 tháng 5 năm 2016 (nhằm ngày 23 tháng 4 năm Bính Thân). - Kim quan Trưởng lão Hòa Thượng được tôn trí tại Tổ đình Long Tuyền, Tp. Hội An, tỉnh Quảng Nam. - Lễ viếng bắt đầu từ lúc 07giờ00 ngày 30 tháng 5 năm 2016 (nhằm ngày 24 tháng 4 năm Bính Thân). - Lễ truy điệu được cử hành lúc 07giờ 30 ngày 02 tháng 6 năm 2016 (nhằm ngày 27 tháng 4 năm Bính Thân),
27/05/2016(Xem: 5636)
Khánh Hòa: Trang nghiêm lễ tưởng niệm lần thư 53 ngày Bồ-tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân Sáng nay, 20-4- Binh Thân (26-5-2916) chư tôn giáo phẩm HĐCM, HĐTS, BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hòa đã thành kính trang nghiêm cử hành Lễ tưởng niệm lần thứ 53 ngày Bồ-tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân và hiệp kỵ chư Thánh tử đạo tại lễ đài chùa Long Sơn - Văn phòng Ban trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa. Quang lâm chứng minh và tham dự có chư tôn giáo phẩm HĐCM, HĐTS, BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hòa: Đại lão HT.Thích Thiện Bình, Phó Pháp chủ HĐCM- Trưởng BTS GHPGVN tỉnh; chư Tôn Đức Tăng Ni Thường trực BTS GHPGVN tỉnh; Ban giám hiệu, Tăng Ni sinh trường Trung cấp Phật học Khánh Hòa, chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử các tự viện tại thành phố Nha Trang.
18/05/2016(Xem: 11206)
Không hiểu vì sao khi chú mất, tôi lại nghĩ mình cần phải viết điều gì đó cho chú, và chính tôi mới hợp nhất trong vai trò người viết này. Có lẽ vì trong quan hệ giữa tôi và chú có cả hai cực Dương và Âm thuần tịnh nhất để tạo nên một khối chân thực. Chính tôi là người chống và phê bình chú nhiều nhất và cũng chính tôi đã thấu được lòng yêu thương chân thành của chú đến người Việt ở đây và nỗi khát khao đem Phật pháp đến cho họ. Và tôi viết những dòng này cho chú.
17/05/2016(Xem: 12002)
Ngày Hoan Hỷ, Tập Văn Kỷ Niệm Khóa Huấn Luyện Trụ Trì năm Đinh Dậu 1957_HT Thích Thiện Hòa
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]