Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lãng đãng một Khuất Nguyên ở Cụ Thiều Chữu

09/04/201319:06(Xem: 6945)
Lãng đãng một Khuất Nguyên ở Cụ Thiều Chữu



KỶ NIỆM 100 NĂM NGÀY SINH

LÃNG ÐÃNG MỘT KHUẤT NGUYÊN Ở CỤ THIỀU CHỬU

Thích Ðồng Bổn

---o0o---

Khi viết về ông, tôi vẫn còn nguyên xúc động của lần đầu ra xứ Bắc tìm dấu tích về nhà trí thức Phật học này cho công trình biên khảo Chư tiền bối hữu công mà tôi đang thực hiện.Những mãng huyền thoại về cuộc đời của ông tôi được nghe qua nhiều người kể lại, mỗi nơi một ít, mỗi người thuật mỗi cách, đã gây cho tôi nhiều trăn trở, nghĩ suy và qua đó cảm nhận sâu sắc hơn về một nhân vật nhiều tài năng mà cũng đầy bất hạnh này. Nghĩ về ông nhân 100 ngày sinh, tôi muốn nói về chất “Sĩ” nơi ông được thể hiện qua năm khía cạnh:

- Thiều Chửu : một “Nho Sĩ” mang chí hướng tải đạo hóa đời.

Vốn xuất thân từ một gia đình bần nông, hơn ai hết ông tất thấm thía cảnh nghèo khổ do bị địa chủ và thực dân áp bức bóc lột. Chính vì thế ông quyết tâm tự học chữ Hán nơi bà Nội của ông với ý nghĩ sẽ mang cái chữ giúp ích cho đờiù. Vốn là một nhà nho , ông tự học thêm các ngoại ngữ Anh, Pháp, Nhật để không bị lạc hậu và để tiếp thu các luồng tư tưởng của thời đại từ khắp nơi trên thế giớùi. Theo gương cha là cụ Cử Cầu – tức nhà Chí sĩ Giản Thạch trong phong trào Ðông kinh Nghĩa thục - ông trở thành một chiến sĩ trên mặt trận chống giặc mù chữ , cái đã làm cho dân ta không nhận thấy con đường sáng vượt qua đói nghèo và con đường cứu nước thoát khỏi cảnh nô lệ ngoại bang của thực dân đế quốc, cụ thể là việc ông cùng với các ông: Nguyễn văn Tố, Ðặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp, Phan Thanh, Trần Huy Liệu lập Hội Truyền bá Quốc ngữ hoạt động tại hội quán Trí Tri, phố Hàng Quạt, Hà Nội(1).

Sự nghiệp lớn nhất của Nho sĩ Nguyễn Hữu Kha là tác phẩm “Hán Việt tự điển”, một cuốn tự điển có giá trị ứng dụng xuyên suốt qua nhiều thời đại, là “sách tủ” của mọi tu sĩ Phật giáo trên đường nghiên cứu Tam tạng giáo điển để tu học. Ở lời nói đầu, ông đã viết lên thao thức của mình về Nho học: “Tôi tự nghĩ rằng Hán học thời nay đang ngày một mất dần, chỉ nhờ có học Phật thì may ra mới duy trì được ít nhiều; nếu dùng cách nào mà giúp cho người đọc được kinh biết được chữ, tức là cái nền tảng để xây đắp lại tòa lâu đài Nho giáo nguy nga tráng lệ”(2).Ngoài ra, ông còn những bài viết mang đậm tính cách bộc trực, khẳng khái của một Nho sĩ trong thực hiện sứ mệnh chống cái xấu, cái ác không khoan nhượng . Giớùi Tăng lữ đương thời không theå không suy ngẫm các bài thơ, bài viết cảnh tỉnh người tu Phật của ông, tiêu biểu là những lời lẽ thẳng mà đautrong quyển “Con đường học Phật thế kỷ 20”.

Dù là một Nho sĩ uyên bác nhưng ông không hề quên cội nguồn bần nông của mình nên suốt cuộc đời ông vẫn luôn gắn bó giữa sự nghiệp tri thức với công việc nông trang, nói gọn hơn là một kẻ sĩ làm nông, đó cũng là một nét đặt biệt nơi ông , ít có nơi nhiều nhà Nho khác.

- Thiều Chửu : một trí thức “Cư Sĩ” Phật giáo.

Khi đến với đạo Phật, ông tự nhận mình “ cũng chỉ là một tín đồ tín ngưỡng triết lý mà thôi” trong lời Tự Bạch. Là một nhà Phật học uyên thâm, ông có nhiều hoạt động tỏa sáng trong giai đoạn chấn hưng Phật giáo Bắc kỳ với trên dưới 40 tác phẩm cho Phật giáo. Hàng loạt những dịch phẩm - tác phẩm về Kinh điển và Phật học có giá trị được ra mắt trong thời này, cùng nhiều bài viết sắc xảo đăng trên báo Ðuốc Tuệ, cơ quan ngôn luận của hội Phật giáo Bắc kỳ lúc bấy giờ. Sách và báo đều xuất bản từ nhà in do ông quản lý, mang đậm tính giáo dục và cải cách.

Trước sự suy thoái phẩm chất ở một bộ phận hàng ngũ Tăng đoàn của đạo Phật thời kỳ này, chỉ thiên về danh lợi chức quyền, đến sự xa hoa từ việc bày vẽ cúng bái mê tín mà xem nhẹ nhiệm vụ truyền bá chính pháp và trau giồi đạo đức giải thoát. Bối cảnh thực trạng này được ông miêu tả như sau trong sách “Con đường học Phật thế kỷ 20”:

“ Người tín ngưỡng Phật giáo nước ta hạng trên nhất chỉ tu lấy lợi một mình, mặc kệ đời chẳng thèm nhìn tới; hạng thứ nhì thì mượn cửa chùa làm chốn dung thân dễ dàng qua ngày; hạng dưới nữa thì lại lấy chùa chiền làm chỗ buôn bán kiếm chác, không từ một sự đê hạ, nhơ nhớp nào mà không dám làm”.

Qua ngòi bút của mình ông muốn làm cuộc cải cách nhằm cảnh tỉnh các tệ nạn trên, đem lại sự trong sáng cho giáo lý Phật đà bằng đề nghị thẳng thắn: “Tôi mong rằng các nhà tín ngưỡng Phật giáo nên chú ý vào hai sự này cho: 1 – Nên gánh vác lấy cái trách nhiệm chỉnh đốn Phật giáo, cải lương Phật giáo. 2 – Ðừng theo cái lối tín ngưỡng về mặt tiêu cực mà phải gắng sức tiến sang mặt tích cực ngay đi. Làm trái lại thì chẳng đợi người ta phá chùa đuổi sư mà chính Phật giáo tất phải đi dần đến diệt vong vậy.”(Sđd)

Ông cũng góp sức truyền bá trào lưu học Phật bằng chữ quốc ngữ ở thời kỳ mà sự mù chữ còn phổ cập khắp nhân dân, việc tụng niệm còn bằng phiên âm từ chữ Hán. Ông nói trong lời tựa bản dịch “Kinh A Di Ðà” rằng: “nhưng vì tính ta kém phần tự lập về tinh thần, cho nên cứ vùi đầu với chữ Hán, ít người dám phiên dịch sang tiếng ta. Ta chưa biết rằng những Kinh chữ Hán ta tụng niệm đó có phải là chính tiếng Phật nói đâu”

Chí hướng và tâm nguyện ấy còn thể hiện trong cách ông chọn Ðạo hiệu cho mình: Thiều Chửu và Lạc khổ. Thiều Chửu, có nghĩa là cái chổi quét bụi, ý muốn nói lên những tệ nạn kia chính là bụi dơ làm hoen ố hình ảnh trong sáng của đạo Phật, mà chính ông là cây chổi quét bụi ấy sẽ làm trong sáng giáo hội qua ngòi bút cải cách của mình.Bút danh Thiều Chửu còn một ý nữa, là trước khi sửa người thì phải trong sạch lấy mình, qua sự hàng ngày phải lau quét bụi trần tham nhiễm, đừng để gương lòng vẫn đục bởi phiền não vô minh che lấp , như bài kệ tỏ đạo của Ngài Thần Tú:(3)

Thân thị Bồ đề thọ

Tâm như minh cảnh đài

Thời thời thường phất thức

Vật sử nhạ trần ai.

Tạm dịch :

Thân là cây Bồ đề

Tâm như đài gương sáng

Thường ngày hằng lau quét

Chớ cho dính bụi trần.

Sử dụng bút danh Lạc Khổ là để cảnh tỉnh chính mình và người trên bước đường tìm đến thường–lạc–ngã–tịnh. Lạc Khổ có nghĩa là vui trong khổ, tượng trưng cho pháp hạnh “thiểu dục–tri túc” trong giáo lý căn bản nhà Phật, nghĩa là ít muốn và biết đủ, thể hiện nơi bản thân ông đã sống trọn đời mình qua nếp sống giản dị, đạm bạc, trường trai mỗi ngày chỉ ăn một bữa đúng Ngọ, guốc mộc nâu sòng như ngươi chân quê để làm tấm gương mẫu mực sách tấn học trò của ông rằng, ngay trong hoàn cảnh khổ ấy hay thân phận khổ đau này, con người ta vẫn tìm thấy niềm hạnh phúc an lạc hơn hẳn mọi điều phù phiếm trên đời.

Ý nghĩa nội hàm của từ Lạc Khổ còn là giác ngộ cái khoå ở chỗ: chỉ có trải qua khổ đau (tức khổ đế), mới nhận thức được bản chất và nguyên nhân của khổ (tức tập đế) trong giáo lý căn bản cuûa đạo Phật là Tứ Diệu Ðế (4 chân lý Khổ-Tập-Diệt-Ðạo).Khi con nguời giác ngộ được chân lý của khổ đau, cũng chính là trực nhận sự an lạc vô biên trong giải thoát; cho nên, hạnh phúc hay đau khổ chính là trong nhận thức của mình thôi.

- Thiều Chửu : người mang tấm lòng “Ðại Sĩ”.

Nhờ thấm nhuần tư tưởng nhà Phật từ thuở nhỏ, ông sớm bộc lộ lòng mẫn cảm thương người nghèo khổ khó khăn hơn mình. Cuộc đời ông đã trải qua bao cay đắng khổ cực từ thuở ấu thơ nên dễ đồng cảm với những số phận bất hạnh, như lời ông đã phát thệ rằng: “ Ðời tôi hễ ai thiếu thốn cái gì muốn nhờ tôi, chưa hé miệng tôi đã vâng, có thì giúp, không thì vay giúp, nếu không giúp được thì lòng tôi đau khổ cũng như người không vay được. Tôi mà còn một bát gạo, ai đói hơn, tôi cũng nhường ngay thà tôi chịu nhịn, và chí tôi với sự nhịn hai ba bữa là thường lắm”(Tự Bạch của Thiều Chửu-Sđd)).

Lòng từ bi khiến ông phát tâm noi chí nguyện chư Bồ Tát giúp đời bằng cách gánh vác và chia sẻ bao nỗi bất hạnh của thời loạn ly, như những việc: chủ trương lập hội Tế sinh nuôi trẻ bị mồ côi; đứng ra lo việc chôn cất cho hàng trăm người bị chết vì nạn đói kém; tổ chức các lớp học cho trẻ bị lạc mất cha mẹ vì chiến cuộc; lập nhà dưỡng lão, nghĩa trang Tế độ và không nề khó khăn gian khổ đưa các em đi tản cư lánh giặc ra vùng tự do v.v. . . Ông còn dạy người làm thuốc Ðông y, tự tay chữa bệnh cho bất cứ ai cần đến không nề hà công sức, còn tổ chức cày cấy ruộng nương, trồng trọt khoai sắn để tự túc kinh tế nuôi dưỡng các em đến trưởng thành.Các việc làm ấy ông xem là sự nghiệp cả đời ông , như ông đã viết tiếp trong lời Tự bạch: “Sau đó, tôi không hề nghĩ đến cái đời riêng của tôi nữa; người ta cho là tôi tin đạo Phật mà không lập gia đình, có biết đâu uẩn khúc của tôi từ thuở còn thơ dại”.

Ông quả là một bậc Ðại sĩ giữa đời thường, một tâm hồn nhân ái giữa cuộc chiến tranh máu lửa của nhân dân để giành chủ quyền đất nước.

- Thiều Chửu : môt nhà “Chí Sĩ” yêu nước.

Hun đúc bởi lòng yêu nước thương nòi, chí căm thù giặc Tây và truyền thống cách mạng của gia đình ( cha ông bị giặc Pháp đày ra Côn Ðảo vì tham gia phong trào kháng Pháp, và những người thân trong gia đình của ông đã chết vì chiến tranh), ông coi việc tận trung tận hiếu vì dân là nghĩa vụ thiêng liêng, như lời ghi ở đầu sách “Con đường học Phật ở thế kỷ 20”: “Phải tận hiếu với nhân dân, nhân dân là cha mẹ bao kiếp, là chư Phật vị lai”. Ta thấy rõ tâm trạng thời trai trẻ của ông trước nỗi đau nước mất nhà tan, lòng căm thù giặc Pháp và bè lũ tai sai đến xương tủy qua những câu thơ đề trên vách lăng của tên Việt gian Lê Hoan(4):

“Thanh thần điếu cửu nguyên

Chủng chủng u tình huyên

Thế thái cạnh phú quý

Nhân tình xu ngân tiên

Công cừu ngạch bái thượng

Nghĩa vụ phóng tâm biên”.

Bản dịch của Nguyễn Hải Hoành :

Tinh mơ qua bãi tha ma,

Vong hồn bao kiếp kêu la vang trời.

Bon chen phú quý thói đời,

Lòng người mê mẫn hướng nơi đồng tiền.

Thù chung: trên trán, đưa lên,

Nghĩa vụ: canh cánh không quên trong lòng”.

Ôâng đã chọn vị trí chiến đấu ở hậu phương qua sứ mệnh giáo dục trẻ em và tăng gia sản xuất, đem tri thức của mình giúp ích cho địa phương ở vùng kháng chiến để góp phần vào sự nghiệp cách mạng giải phóng quê hương khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Niềm tin cách mạng tất thắng cộng với tín ngưỡng đạo Phật nơi tâm hồn được ông cảm tác qua bài thơ:

Phen này cắt tóc đi tu,

Tụng kinh Ðộc lập, ở chùa Duy Tân

Ðêm ngày luống những ân cần

Cầu cho ích quốc lợi dân mới là

Cầu cho nước Việt Nam ta

Khắp Trung Nam Bắc một nhà vui chung

Toàn dân kháng chiến thành công

Tự do Hạnh phúc vô cùng vô song.

(Vô Ðề – 1947)

Sự khẳng khái của một Chí sĩ được ông thể hiện qua bài viết cảnh cáo những người Phật giáo làm tai sai cho giặc vào cuối năm 1952(5): “ Nội dung bài ấy có hai phần, phần 1 chỉ rõ tinh thần cách mạng của Phật giáo thuyền tông; phần 2 chỉ rõ chỗ suy kém của Mỹ, và chỉ cho đường về với kháng chiến”. Ông quan niệm, thà khổ sở thiếu thốn trăm bề nơi vùng tự do của kháng chiến, còn hơn sống nhục nơi chốn phồn hoa đô hội do giặc chiếm đóng; quyết liệt hơn, ông dứt khoát không chịu nhận bất kỳ sự trợ giúp nào bắt nguồn từ nội thành gửi ra, khi được Hòa thượng Tố Liên gửi biếu 6 lượng vàng, ông răn dạy học trò của mình rằng: “Chúng ta phải tự lực cánh sinh; người tư do không ăn xin người mất tự do. Vàng của ai cho phải trả lại, dứt khoát tôi không dùng”(Tự Bạch của Thiều Chửu-Sđd). Ðó phải chăng chính là phẩm chất cao thượng của người Chí sĩ ở nơi ông, không còn gì phải bàn luận thêm vậy.

-Thiều Chửu :một nhân cách rạng danh“Tiết Sĩ”.

Trong chính sách xác định thành phần cải tạo ruộng đất năm 1954, do trình độ nhận thức yếu kém của người thực thi và do một số quần chúng dễ bị chi phối bởi các lời tuyên truyền của những phần tử cơ hội rằng những người trí thức đều gốc là thành phần tư sản bóc lột ... ông đã trở thành nạn nhân của một oan án . Là một kẻ sĩ, oÂng đã chọn cái chết để bày tỏ tiết tháo của mình. Tôi được nghe một vị Nhân sĩ giáo phẩm kể lại rằng: sau khi viết thư để lại và dặn dò cùng các học trò của mình, ông đã kết thúc cuộc đời bằng cách thắp hương tạ lễ bốn phương bên bờ sông, sau đó tự quấn chăn vào mình nhảy xuống giòng sông ở đoạn chảy siết để tự trầm.Ðấy cũng là cái dũng khí lớn nhất mà ông đã làm được để giữ gìn phẩm giá ở một người trí thức, để laøm một bài học thức tỉnh những ai còn chưa thấu hiểu đạo lý tình người, để không một ai có thể tùy tiện bóp méo sự thật về ông.

Lấy cái chết để thể hiện hiện tấm lòng trong sạch của mình, mà không hề oán hận người nào, không muốn đổ lỗi cho ai, hoặc bất mãn về đường lối chính sách; trước sau ông vẫn một lòng tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng do chính phủ lãnh đạo, ấy là sự tuẫn tiết của tấm lòng trung kiên, của niềm tin đạo nghĩa vẫn có ở đời, và vì ông vững tin vào thế hệ học trò cùng hậu duệ của mình vẫn sẽ tiếp bước đi theo con đường đúng đắn mà ông đã dạy dỗ ấy, tất sẽ có ngày trả lại công bằng và danh tiết cho mình mai sau.

* * *

Nghĩ về ông, tôi không khỏi bùi ngùi cho thân phận kẻ sĩ đã ỡ vào một giai đoạn lịch sử bi tráng của dân tộc trong thời kỳ đầu giành lại độc lập từ tay ngoại bang. Những lời kể về việc tử tiết của ông gây ấn tượng mạnh mẽ nơi tôi, bởi từ trước tới nay tôi chưa hề nghe thấy sự tuẫn tiết nào đặc biệt và chấn động đến thế. Chính vì thế tôi lặn lội tìm hiểu biên khảo về ông ở thập niên 80 – 90 để viết tiểu sử của ông .Ôâng tự cho trường hợp của ông là cái án “mạc tu hữu” mà Nhạc Phi đời Ðường phải gánh chịu(6) nhưng tôi nghĩ cái chết của ông phảng phất sự tuẫn tiết của Nhà nho Khuất Nguyên nước Sở- thời Chiến quốc, cũng đã nhảy xuống giòng sông Mịch La tự trầm, sau khi để lại câu nói bất hũ : “thế gian này tất cả đều say, chỉ có mình ta là tỉnh”.

Những điều luận bàn quanh năm chất Sĩ : Nho sĩ, Cư sĩ, Ðại sĩ, Chí sĩ và Tiết sĩ của Nguyễn Hữu Kha để khẳng định rằng, Thiều Chửu đối với đạo là một Phật tử có đạo đức mẫu mực; đối với đời là một Nhân sĩ có nhân cách cao đẹp, Cuộc sống và cái chết của ông đã để lại những mến tiếc vô cùng trong lòng những thức giả đương thời và hậu học ngày nay.

Mùa Xuân năm Nhâm Ngọ ở Sài Gòn, tháng 3 - 2002

Thích Ðồng Bổn

Ghi chú:

(1)Theo “Cư sĩ Thiều Chửu – Nguyễn Hữu Kha”, Trần Việt Quang và Nguyễn Hải Trừng, Tài liệu lưu hành nội bộ.

(2)Tự điển Hán Việt, bản in lần thứ nhất của NXB Ðuốc Tuệ, 1942

(3)Phật học Phổ thông khóa thứ V, Thiền tôn, tr.202,Thành hội PG Tp.HCM xb, 1997

(4). Lê Hoan, kẻ đã làm tay sai cho giặc, chỉ huy đánh úp ông Hoàng Hoa Thám –tức cụ Ðề Thám, lãnh đạo khởi nghĩa Yên Thế(Bắc Giang) năm 1913, ông bị tay sai thực dân Pháp ám hại.

(5)Bài viết này ông gửi cho anh Ðường tìm cách phổ biến trong nội thành, sau anh đã bị giặc bắt. Tự Bạch của Thiều Chửu, tr.14. Tài liệu lưu hành nội bộ.

(6)Lời ông viết ở những dòng cuối cùng của bản Tự Bạch–Sđd, nhưng có chỗ cần đính chính là Nhạc Phi ở đời Nam Tống chứ không phải đời Ðường. Tuy nhiên, người viết vẫn trích dẫn nguyên văn.

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/09/2018(Xem: 7862)
Chúng tôi hổ thẹn mang nặng thâm ân 2 bậc Thầy lớn, đã để lại trong đạo nghiệp mình nhiều dấu ấn giáo dưỡng thâm trọng, dù cho có nghìn đời cố gắng cũng chưa thể báo đáp hết:
03/09/2018(Xem: 18127)
Nhiều lời Đức Phật dạy trong kinh điển có thể được nhìn thấy qua nhà thơ Bùi Giáng. Toàn thân Bùi Giáng chính là Khổ Đế hiển lộ qua cái được thấy. Tương tự, với Tập Đế. Nụ cười của Bùi Giáng chính là Đạo Đế hiển lộ an lạc qua cái được thấy. Tương tự, với Diệt Đế. Bùi Giáng đùa giỡn ca ngâm với lời lời ẩn nghĩa chính là diệu chỉ tâm không dính mắc của Kinh Kim Cang, hiển lộ qua cái được thấy và cái được nghe. Bùi Giáng đi đứng nằm ngồi giữa phố như không một nơi để tới chính là diệu chỉ sống với cái Như Thị của Kinh Pháp Hoa, hiển lộ qua cách thõng tay vào chợ. Bùi Giáng viết xuống chữ nghĩa xa lìa có/không, dứt bặt đúng/sai, hễ viết xuống là gửi vào tịch lặng bờ kia chính là diệu chỉ gương tâm rỗng rang của Bát Nhã Tâm Kinh. Đó là hình ảnh nhà thơ Bùi Giáng trong tâm tôi nhiều thập niên qua.
23/08/2018(Xem: 6332)
Tôi thật may mắn được biết đến và là học trò của Hòa thượng Thích Minh Châu. Tôi có may mắn lớn này là nhờ bác Vũ Chầm, Chủ tịch VinaGiày, một tấm gương sáng về tu tập và phụng sự. Thế rồi mỗi lần từ Hà Nội vào Sài Gòn là tôi thường tìm mọi cách đến thăm Thầy. Mỗi lần được bên Thầy là một cơ hội được học hỏi, được dạy dỗ và chỉ bảo, được nhận năng lượng và bình an.
23/08/2018(Xem: 8451)
Thường trực BTS GHPFVN tỉnh Khánh Hòa vừa ký Cáo phó kính tiếc báo tin HT.Thích Đức Lưu, Ủy viên Ban Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, Trưởng BTS GHPGVN huyện Cam Lâm, Ủy viên Ban Tăng sự Phật giáo tỉnh, trụ trì chùa Pháp Vân tân viên tịch. Theo cáo phó, HT.Thích Đức Lưu do bệnh duyên.đã thuận thế vô thường, thâu thần viên tịch vào lúc 18 giờ, ngày 21-8-2018 (11-7-Mậu Tuất) tại chùa Pháp Vân, xã Cam Hòa, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa . Trụ thế 64 năm, hạ lạp 42 năm. Lễ nhập kim quan lúc 15g, ngày 22-8-2018 ( 12-7-Mậu Tuất), kim quan được tôn trí tại chùa Pháp Vân Lễ viếng bắt đầu từ 8 g, ngày 23-8-2018. Lễ tưởng niệm vào lúc 14g, ngày 25-8-2018 (nhằm 15-7-Mậu Tuất), sau đó 15g phụng tống kim quan nhập bảo tháp trong khuôn viên chùa Pháp Vân, Cam Lâm.
23/08/2018(Xem: 11954)
Hòa thượng Thích Quảng Độ trả lời phỏng vấn tiếng anh chia sẻ với Phật tử thế giới
18/08/2018(Xem: 5841)
Lễ Huý Nhật Lần thứ 1 Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Thủ Thích Tâm Châu tại Chùa Phật Quang, Victoria, Úc Châu. Thứ Bảy, 18-8-2018 Chương Trình Lễ Huý Nhật: - Cung thỉnh chư Tôn đức Tăng Ni quang lâm - Cung An Chức Sự (NS Thích Nữ Chân Kim) - Nghi cúng tiến Giác Linh Đức Trưởng lão Hòa Thượng - Lễ Chào Phật Giáo Kỳ và một phút nhập Từ Bi Quán - Tuyên bố lý do và giới thiệu chư Tôn Đức tham dự ( MC TT Thích Nguyên Tạng) - Cung tuyên Tiểu Sử Cố Trưởng Lão Hòa Thượng ( TT Thích Tâm Phương - Lời Đạo Tình của Trưởng Lão HT Thích Huyền Tôn, Phó Thượng Thủ GHPGVNTTG, Tăng Giáo Trưởng GHPGTNHNUĐLTTL Viện Chủ Chùa Bảo Vương - Lời tưởng niệm về Đức Trưởng Lão HT Thích Tâm Châu ( HT Thích Tịnh Đạo) - Dâng hoa cúng dường Giác Linh Đức Trưởng Lão Hòa Thượng - Ngâm thơ của Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Truy niệm Giác Linh. (Phật tử Tuệ Minh) - Cảm Tạ của ban tổ chức. (ĐĐ Thích Chân Phong) - Cúng Dường Trai Tăng và hoàn mãn.
15/08/2018(Xem: 7911)
Nếu chúng ta từ phương diện thư tịch nhìn về quá trình du nhập và phát triển Phật giáo tại Việt Nam, cho thấy số lượng kinh sách trước tác hay dịch thuật của người Việtquá ư khiêm tốn,nội dung lại thiên về thiền họcmang đậm nét cách lý giải của người Hoa về Phật học Ấn Độ, như “Khóa Hư Lục”, “Thiền Uyển Tập Anh” (禪苑集英), “Thiền Tông Chỉ Nam”, “Thiền Tông Bản hạnh”…Điều đó minh chứng rằng, Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng khá sâu nặng cách lý giải Phật học của người Hoa. Nguyên nhân nào dẫn đến sự ảnh hưởng này, theo tôi ngoài yếu tố chính trị còn có yếu tố Phật giáo Việt Nam không có bộ Đại tạng kinh bằng Việt ngữ mang tính độc lập, để người Việt đọc hiểu, từ đó phải dựa vào sách của người Hoa, dẫn đến hiểu theo cách của người Hoa là điều không thể tránh. Nếu thế thìchúng ta nghĩ như thế nào về quan điểm độc lập của dân tộc?Tôi có cảm giác như chúng ta đang lúng túng thậm chí mâu thuẫngiữa một thực tại của Phật giáo và tư tưởng độc lập của dân tộc.
13/08/2018(Xem: 6940)
Cách đây hơn một tuần, trong khi tìm kiếm tài liệu để viết lại tiểu sử tóm tắt của Ni Sư Thích Nữ Giới Hương với các chi tiết chọn lọc, cần thiết, đã được cập nhật,theo ý của chúng tôi. Chúng tôi mới bỗng nhớ ra rằng: Năm 1978, lúc Ni Sư mới 15 tuổi, Ni Sư xuất gia với Sư Bà Hải Triều Âm (Đại Ninh - Việt Nam). Như vậy, tính đến năm 2018 này, là năm kỷ niệm 40 NĂM XUẤT GIA CỦA NI SƯ THÍCH NỮ GIỚI HƯƠNG. Tuy mới biết và được hầu chuyện Ni Sư chỉ năm mười phút ngắn ngủi tại Chùa Hương Sen, rồi sau đó đọc một số tác phẩm, những bài pháp luận, thuyết trình… của Ni Sư. Chỉ ngần ấy thôi, nhưng chúng tôi vẫn luôn lưu giữ cái cảm nhận rất chân thành và nghiêm túc này: Rằng Ni Sư Thích Nữ Giới Hương là người rất mực khiêm cung, suy nghĩ cẩn mật. Rằng Ni Sư là người kiên tâm trì chí tu học và hành Đạo suốt 40 năm ấy; Rằng Ni Sư Thích Nữ Giới Hương là “Người gieo duyên Phật pháp, gieo duyên Đạo”* không ngừng nghỉ và không biết mỏi mệt. Và rất nhiều đức khác mà chúng tôi kính trọng, ngưỡng vọng
11/08/2018(Xem: 7855)
Hòa Thượng Thích Huyền Tôn: Chúc thọ Đức Đại Thụ Tăng Thống Thích Quảng Độ. Cung Kính Chúc Thọ Đại Thụ Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ Trí Lực câu viên Đạo Lực Tu Di ! Úc Châu Tiểu đệ HT Thích Huyền Tôn (91 tuổi).
03/08/2018(Xem: 24971)
Hòa Thượng Thích Minh Tuyền vừa viên tịch tại Nhật Bản, Hòa Thượng THÍCH MINH TUYỀN thế danh LÊ MINH TUYỀN sanh ngày 08 tháng 09 năm 1938 (Mậu Dần), tại thôn Bình Hội, thị trấn Chợ Lầu, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Xuất gia năm 7 tuổi (Năm Ất Dậu (1945) tại Chùa Bửu Tích thuộc thôn Bình Liêm, xã Phan Rí Thành, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Năm 1970, HT đến du học tại Nhật Bản và lưu trú đến ngày nay. Vì tuổi cao sức yếu, Nài đã thuận thế vô thường viên tịch vào lúc 3giờ 35 phút sáng ngày 22 tháng 08 năm 2017 (nhằm ngày 01 tháng 07 nhuần năm Đinh Dậu), trụ thế 80 năm, 60 hạ lạp. Chương trình Tang Lễ của Hòa Thượng Tân Viên Tịch sẽ được công bố trong thời gian sớm nhất. Ngưỡng mong Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni và Quý Đồng Hương Phật Tử gần xa nhất tâm cầu nguyện Giác Linh Tân Viên Tịch Thích Minh Tuyền Cao Đăng Phật Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]