Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

48. Thầy tôi (bài viết của Bác Sĩ Trương Ngọc Thanh viết kính dâng đến Hòa Thượng Thích Như Điển

17/06/201408:14(Xem: 18846)
48. Thầy tôi (bài viết của Bác Sĩ Trương Ngọc Thanh viết kính dâng đến Hòa Thượng Thích Như Điển

ht-nhudien2

48. Thầy tôi
(bài viết của Bác Sĩ Trương Ngọc Thanh
viết kính dâng đến Hòa Thượng Thích Như Điển0




Buổi sáng tháng năm đến thật nhẹ, vẫn còn cái se lạnh của những ngày đầu xuân.

Đêm qua tôi cũng về chùa dự lễ như bao lần. Đêm văn nghệ với những cô bé thật dễ thương và duyên dáng trong quốc phục Kimono với vũ khúc thần tiên của xứ Phù Tang đã làm gợi nhớ về một người Tu Sĩ xứ Quảng của những tháng năm thật xa xưa.

Ngày ấy Thầy đã rời bỏ làng quê nghèo khó ở một nơi xa lắm có tên gọi Việt Nam, ở nơi đó có những mái chùa rêu phong cổ kính, nơi có những bát cơm canh đạm bạc… Nơi đã từng một lần để Thầy chấp cánh bay xa hơn trên vạn dặm đường.

Thầy ra đi ngày ấy, tháng hai năm 1972, nước Nhật đang vào lúc giao mùa Đông Xuân. Có ai ngờ một lần ra đi là muôn lần biệt xứ, không lối đi về.

Tiễn đưa Thầy mùa hè năm ấy, mùa Hè Đỏ Lửa, quê hương Việt Nam đầy khổ nạn. Năm đó tôi cũng phải rời xa An Lộc trong nước mắt, dưới lửa đạn mưa bom, ở vào lứa tuổi thanh xuân.

Quê hương không lối đi về, trên đường lưu lạc. Năm 1977 Thầy đã chọn Đức Quốc là chốn dừng chân.

Ngày mồng một tháng 5 năm 1980. Đêm thật buồn và dài vô tận. Ngồi trên boong tàu Cap Anamur nhìn về đại dương mù xa, biển nước mênh mông. Có lẽ, ở nơi đó có Việt Nam của tôi. Nước mắt tuôn tràn khi chương trình Việt ngữ của Đài BBC Luân Đôn đưa đi một mẫu tin ngắn, như mẫu tin ngắn hằng đêm: „52 thuyền nhân đã được Tàu Cap Anamur của Hiệp Hội Bác Sĩ cấp cứu Tây Đức cứu vớt trên biển Đông sau chuyến hải hành 7 ngày đêm, trên một chiếc ghe dài hơn 6 mét“.

Tiếp theo bản tin ấy, ca sĩ Khánh Ly đã thổn thức như tâm trạng của chúng tôi trong khúc hát “…Chiều nay có một người di tản buồn, nhìn về quê hương xa…“.

Qua dòng nước mắt nhạt nhòa, tôi biết Sài Gòn của tôi đã thật xa và rất xa. Ở nơi đó còn có Mẹ và Cha. Có Anh Em, có bạn bè và muôn vàn niềm thương nỗi nhớ!

Thôi đã mất hết rồi…

Tôi đã mất đi những ngày tháng mộng mơ của một thời vụng dại. Mất đi những hẹn hò thơ mộng trên con đường muôn thuở ngập lá me bay dẫn đến ngôi trường Võ Trường Toản cổ kính nằm giấu mình trong những tàng cây cao vút. Còn đâu nữa con đường Cộng Hòa ngập hoa vàng Cườm Thảo của Đại Học Khoa Học ngày âý của tôi.

Tháng 7 năm 1980 Tây Đức đang vào hè.

Ngỡ ngàng nơi xứ lạ. Tâm trạng chúng tôi thật rối bời với bao niềm vui, nỗi nhớ. Bơ vơ và lạc lõng trên quê người, thân tâm bất ổn… May mà còn có Huyền Linh bên cạnh, cô bạn học bé nhỏ ở khung trời Khoa Học và cũng là người đồng hành trong những ngày gian khó nơi đất khách quê người, cũng làm vơi đi phần nào nỗi đau nhớ nhà.

Ngày còn ở quê nhà, thời thơ ấu, tôi được theo Bố Mẹ đi chùa ở Sài Gòn vào những đêm trăng rằm dịu mát, hay những tháng ngày thời thiếu niên được cùng đi sinh hoạt trong Gia Đình Phật Tử Quảng Đức của chùa Từ Quang, Bình Long. Lời kinh tiếng mõ đã nhẹ đi vào tiềm thức và tâm tưởng của tôi. Tôi đến với Đạo Phật như thế đó.

Ít tháng sau đó, chúng tôi tìm đến Thầy qua một gia đình đỡ đầu người Đức. Họ cũng là những người ly hương sau chiến tranh. Họ có được cái đồng cảm của những người mất quê hương.

Ngày ấy chùa mình còn nghèo và đơn sơ lắm, ở đường Kestner. Một gian chánh điện với vài hình ảnh của Phật và những bức tượng nhỏ và gian khác là nơi cư trú của Thầy. Hôm ấy Thầy đi Phật sự ở xa, tôi chỉ gặp Thầy Minh Phú và một Phật Tử.

Lần gặp được Thầy với chiếc áo nâu sồng thật bình dị. Tôi thấy Thầy như thật gần. Thầy han hỏi chúng tôi thật nhiều và thật chân tình. Mùa Đông năm 1980, tuyết năm đó thật nhiều, tuyết đẹp như những bông hoa trắng ngần nhẹ rơi trong gió. Chúng tôi đến Denklingen để học một khóa Đức Ngữ 12 tháng để chuẩn bị vào lại Đại Học. Dù cách trở xa xôi Thầy cũng đến thăm các học viên chúng tôi, với những bó nhang, tập Kinh để an ủi và đã làm cho chúng tôi thật ấm lòng, với những lời nói đằm thắm dịu hiền.

Vào thời đó, đi học nội trú, nên chúng tôi không nhà. Dịp lễ Ostern (Phục Sinh), vì trường đóng cửa, nên chúng tôi cùng vài người bạn về chùa để có nơi nương tựa. Lúc nầy chùa Viên Giác được hình thành từ một kho chứa hàng của một hãng xưởng Đức bỏ không. Chúng tôi thay nhau sơn phết, dọn dẹp.

Ngày ấy bước đường đi của Thầy gian truân lắm, dù với bao trợ lực của Phật tử. Chúng tôi đã hơn một lần ngạc nhiên được Thầy dẫn đi chợ phiên cuối tuần. Thầy chỉ cho cách lựa bó rau, củ khoai…

Thầy đã ưu ái dành cho chúng tôi một ngày để đưa đi vườn hoa Ngự Uyển của Bá Tước xứ sở Hannover, nơi Thầy trụ xứ.

Dạo đó chùa còn Bác Diệu Niên (sau nầy xuất gia là Sư Cô Hạnh Niệm), có Anh Lộc, Chị Nga…. Đó là những cánh tay của Thầy lúc đó mà chúng tôi được biết đến trong những ngày lưu lại đây.

Dù đã được quy y với Thầy vào những năm 1980, nhưng tôi vẫn chưa là một Phật tử thuần thành. Kinh mõ vẫn không thông. Nhưng tôi học được ở Thầy nhiều lắm. Học về gương khổ hạnh, lòng kiên nhẫn, tính bình dị và nhân ái với muôn loài.

Khi thi trúng tuyển vào trường Đại Học Y Khoa Hannover (MHH) tôi đã được Thầy cho ở lưu trú tại chùa để tiện việc học. Độ hai tuần sau tôi tìm được chỗ ở trong Ký Túc Xá Sinh Viên. Dịp nầy tôi được làm quen với đời sống khổ hạnh, đạm bạc tương chao.

Trong trường Đạo và trường Đời, Thầy đã đào tạo được không biết bao nhiêu là Tăng tài, đã gầy dựng được một Giáo Hội được sự nể trọng của người bản xứ. Đây là niềm hãnh diện của người Việt ly hương. Thầy đã là người đỡ đầu tinh thần cho bao ngàn người Việt Nam tha hương như thế.

Dù trăm công ngàn việc, năm nào ở tận Úc Châu, Thầy cũng không quên dành cho Anh Em chúng tôi một chút quà trong ngày đầu Xuân. Những tình cảm ưu ái đó đã làm cho chúng tôi thật xúc động và thật khó quên.

Tôi không còn là một “chú ngựa non háu đá“ như ngày nào. Gương hiếu hạnh và hiếu học của Thầy cũng làm cho chúng tôi không ngừng học hỏi thêm từng ngày để chen chân với đời nơi đất lạ quê người như kỳ vọng của Bố Mẹ chúng tôi.

Ngày ra đi, những năm đầu của 1970, Thầy ở vào lứa tuổi đôi mươi. Có ai xa quê rời xứ mà chẳng có những hoài niệm về một tuổi thơ, về quê hương và mong có một ngày về để tìm lại chốn cũ, chùa xưa, nơi Thầy đã một thời gắn bó. Hơn 40 năm sau, đường về tuy gần, nhưng còn xa quá, trong lý tưởng và tâm tưởng của một nhà chân tu. Một người đã trọn đời cho quê hương và đạo pháp.

Bao năm rồi và có lẽ sẽ mãi về sau. Ở cái tuổi tạm dừng nầy Thầy đã giữ cái nghĩa khí của bậc Cao Tăng, dù bao sóng gió và thử thách trong cơn pháp nạn, ở nơi cuộc đời tạm bợ nầy.

— Trương Ngọc Thanh (Minden, ngày 18.5.2014)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 8098)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 8187)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 5194)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37461)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6244)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6191)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5827)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5716)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5990)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5523)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]