Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

19.Trăng Nguyên Tiêu trước cổng chùa (Huỳnh Ngọc Nga)

17/06/201404:04(Xem: 18996)
19.Trăng Nguyên Tiêu trước cổng chùa (Huỳnh Ngọc Nga)

blank
(Kính mừng sinh nhật 65 năm tuổi
của HT.Phương Trượng TNĐ)


Thời kinh tối đã mãn, Hòa Thượng chào các đạo hữu đã cùng Sư tụng thời kinh vừa qua rồi lặng lẽ trở về hậu liêu của mình. Sư nghe hơi mệt, có lẽ trọn ngày nay Sư dụng sức quá nhiều trong việc di chuyển từ tu viện Viên Đức về Viên Giác tự để làm lễ khai kinh cho Tết Nguyên Tiêu tại hai nơi nầy, rồi thêm buổi lễ ra mắt sách của nhóm các cây bút nữ Viên Giác nữa. Tất cả sự sôi động của một ngày trọng đại tại cửa thiền khiến một người già tuổi ngoài sáu mươi như Sư nghe đuối sức là chuyện thường. Bây giờ ngày đã tàn, mọi việc đã xong, Sư thấy thèm được thư giãn một mình trong căn phòng tu tĩnh của mình vô cùng.

Buông mình xuống chiếc ghế thân quen, Sư vói tay lấy bình trà nhỏ trên bàn rót một tách đầy và thong thả nhấp từng ngụm nhỏ. Uống trà là thói quen của Sư từ những ngày còn theo thầy học đạo trên xứ sở Phù Tang. Người Nhật coi việc uống trà như một nghi thức thiêng liêng đến độ gọi đó là Trà Đạo, Sư thích lối uống có tính cách thiền tĩnh nầy vì nó mang đặc trưng của Hòa – Kính – Thanh - Tĩnh, bốn yếu tố thuần lương của Phật giáo. Uống trà theo phong cách đạo Nhật mang nhiều sắc thái khá cầu kỳ, không phải muốn uống là uống, cứ lấy trà bỏ vào nước sôi rồi nhâm nhi thưởng thức, suy nghĩ, bàn luận chuyện đời, chuyện đạo mà phải lựa từng lá trà, nước tinh khiết đun trà, bộ ẩm trà theo bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Nơi ngồi uống trà cũng nhiêu khê không kém, phải là trà thất với tranh, liễn thơ đối hoặc trà viên với hoa cỏ thanh lịch ứng với không gian, thời gian của tinh thần Trà Đạo. Thú uống trà nầy dường như chỉ dành cho giới thượng lưu quý phái và những bậc tu hành yêu thanh tĩnh để định chân tâm, Sư cũng đã lắm lần tịnh tâm trong phong thái đó. Nhưng ở đây, giữa Viên Giác tự, nơi tập hợp mọi giới, mọi thành phần Phật tử tha hương, Sư không muốn mình khác biệt giữa muôn người, một tách trà đơn sơ, thể hiện sự hòa đồng cùng tha nhân cũng là tâm ý của Sư như tự thuở nào.

Vị trà xanh chát chát khiến đầu óc Sư chợt như tỉnh lại, Sư bất chợt nhìn về phía góc bàn, quyển Những Cây Bút Nữ Viên Giác 2 nằm đó như nhắc nhở Sư một đoạn đường Sư đã đi qua. Đẩy tách trà qua một bên, Sư cầm quyển sách đưa lên trước mặt, lật bìa trước, bìa sau Sư bỗng bâng quơ mỉm cười, lẫm bẫm:
- Viên Giác, Viên Giác…

Viên Giác là tên một tạng kinh Phật, cũng là tên ngôi chùa cũ thân quen của Sư một thời thơ ấu nơi quê cũ Hội An, Quảng Nam bên kia Việt Nam xa mấy ngàn dặm chim bay. Sư mang trong lòng những lời kinh Phật như mang nỗi nhớ về nơi mình đã từ đó ra đi. Trên xứ người, Sư thấm thía hơn bao giờ hết nỗi niềm của khách ly hương và tự trong tâm, Sư mong muốn một nơi nào đó có thể mời gọi được đồng hương mình cùng quy về để tìm lại những cảm giác thân thương qua những tập tục, truyền thống chung của quê nhà. Những tập tục, truyền thống đó có gì hơn được tiếng chuông ngân, lời kinh giảng với những bữa cơm chay trong những ngày đại lễ từ Tết Nguyên Đán, Nguyên Tiêu, Trung Thu, Vu Lan… mà bất cứ người Việt nào nặng lòng với đất mẹ cũng không thể quên. Với mong muốn chân thành đó, Sư bỏ công vận động những Phật tử có tấm lòng vàng cùng nhau chung góp tịnh tài, công sức để rồi năm 1991 một ngôi chùa ra đời tại Hannover cũng với tên Viên Giác, tên thiền tự của hôm qua, của hôm nay và cả của khi nào Sư viên mãn đạo, đời.

Ai bảo người tu không tham lam, ham hố là sai. Sư xuất gia từ ngày còn trẻ, học đạo bao năm cứ tưởng bỏ được tính tham thường tình nhân thế. Nhưng đến đây rồi Sư mới biết mình lầm vì càng học đạo mầu, Sư càng thấy ham muốn học thêm để biết tận tường tinh hoa Phật giáo. Cái tham lam, ham hố học hỏi đó chẳng làm hại ai và chắc cũng chẳng ai bắt tội người ham học. Duy có một điều là Sư cũng tham lam mơ ước được mở rộng sự hiểu biết đạo lý nhà Phật cho mọi người, vì vậy có được Viên Giác tự rồi Sư lại muốn có thêm một tờ báo để quảng bá tin tức Phật sự, bài vở về cuộc sống thế nhân nói chung và người Việt nói riêng, nhất là những người Việt mà vì căn cơ đất nước họ phải làm chim thiên di xa lìa quê cha, đất tổ. Và thêm một điều quan trọng khác để Sư nuôi ý định có một tờ báo cho cửa chùa, tiếng Việt. Quả thật là như vậy, ngoài giềng mối Phật đạo, Sư cũng muốn duy trì ngôn ngữ mẹ đẻ của người Việt tha hương nữa. Sư thấy mình tham lam thật, mới xây được chùa bây giờ lại mơ tờ báo, đi tu như Sư như vậy không biết có phải tội ham hố quá nhiều hay không? Nhưng cái tham muốn nầy Sư nghĩ chắc lòng trời cũng tha và ý người cũng chiều nên ngày tháng thong dong sau đó Sư gặp người tri âm chữ nghĩa, Nguyễn Hòa Phù Vân, người đã can đảm đứng ra gánh vác chức vụ Chủ Bút cho tờ Viên Giác gần hai mươi năm qua.

Tờ báo như một nhịp cầu, nhịp cầu với tiếng Việt là nước tuôn bồng bềnh trôi chảy khắp nơi đã kết nối bao nhiêu trái tim của những người yêu chữ nghĩa quê mẹ tìm về với nhau, tìm nhau qua bài viết, tìm nhau qua cách đọc từ chuyện xưa, tích cũ đến những vấn đề thời sự đó đây, những ôn cố tri tân lời Phật dạy, những nhắn nhủ, gọi mời khi quan, hôn, tang lễ. Cũng những tương quan đó, những quyển sách từ những người tham gia cộng sự của tờ báo thỉnh thoảng xuất hiện, đóng góp cho vườn hoa văn chương Viên Giác thêm nhiều sắc màu tươi thắm và bông hoa mới gần đây nhất là quyển Những Cây Bút Nữ 2 mà bây giờ Sư đang cầm trên tay.

Quyển sách làm Sư chợt nhớ đến cô bé Malala Yusufzai người Afganistan, 9 tuổi nhỏ đã đòi quyền được học - một quyền bị giảm chế đối với phụ nữ xứ nầy -, cô bé đã bị hăm dọa, bắt cóc, bị thương vì những người cực đoan Hồi giáo Taliban nhưng cô vẫn kiên cường không sợ hãi. Khi được quốc tế giải cứu, ở tuổi 15 cô đã đứng ra binh vực cho việc học, cho sách vở. Năm 2013, trước chính trường Liên Hiệp Quốc cô dõng dạc tuyên bố “một quyển sách có sức mạnh và cần thiết hơn cả một đạo quân”. Dĩ nhiên rồi, một quyển sách tốt - để phân định rõ với những quyển sách không tốt – có sức mạnh vạn cân, không cần vũ khí mà vẫn đánh gục được kẻ thù ngu dốt, không cần chuông trống mà vẫn kêu gọi được tâm ý của muôn người. Từ một quyển sách người ta có thể ngồi một chỗ để biết chuyện kim, cổ, gần, xa. Từ một quyển sách tha nhân có thể nói hết nỗi niềm của mình cho mọi người cùng chia sẻ. Trong cho và nhận, cho tâm ý, nhận lời bình, quyển sách làm tất cả. Sách là bạn khi cùng ta tâm đắc, là thầy khi hướng dẫn ta những điều ta chưa biết, là chứng nhân lịch sử khi ghi chép những hiện tượng lớn, nhỏ toàn cầu.

Tờ báo Viên Giác đón nhận nhiều người yêu thơ văn hợp tác và chắc chắn họ cũng yêu sách như cô bé Malala. Vì vậy, thư viện chùa đã có biết bao nhiêu quyển sách của các văn nhân, thi sĩ từ nam đến nữ ra đời dưới sự bảo trợ của thiền môn. Sư nhớ lại cơ duyên khi quyển 1 của Những Cây Bút Nữ Viên Giác ra mắt cùng mọi người, đó là năm 2008, để kỷ niệm 30 năm tuổi chùa Viên Giác chủ bút Phù Vân đề nghị cùng Sư cho xuất bản một quyển sách quy tụ những cây bút nữ thường xuyên cộng tác cùng tờ báo. Là chủ bút nên Phù Vân có thể hiểu được thành phần người cộng tác bên nào nặng hơn bên nào về nhân số nên chọn các văn sĩ tóc dài, cũng có thể anh định dành cho các nam văn sĩ quyển sách kế tiếp, lần nầy nhường cho phái yếu xung phong đi đầu. Đề nghị đó được Sư vui vẻ nhận lời liền, tưởng gì chứ chuyện sách, báo luôn là điều Sư luôn ưu ái từ trước đến nay mà. Thế rồi qua những mời gọi đóng góp, hợp tác cuối cùng anh chủ bút trình cho Sư biết là có bảy cô nhận lời, những cô nầy là cây bút tài tử, yêu chữ, nặng nghiệp hờ viết lách nên tạm xao lãng chuyện bếp núc, chồng con để đùa cùng chữ nghĩa, thử lửa một phen đua chen cùng bạn bè trên văn đàn hải ngoại. Thế là Những Cây Bút Nữ Viên Giác tu oa chào đời vào mùa Vu Lan 2008 tại diễn đàn Viên Giác tự. Và hơn cả ngoài sự mong đợi, quyển sách thành công, nếu không nói là rực rỡ. Anh chủ bút hân hoan, các nhà văn bếp nghe tưng bừng khí thế và Sư cũng vui lây với thành quả chung của nhóm. Nhóm gì nhỉ? A, có lần anh chủ bút kể lại với Sư là sau ngày ra mắt sách, các cây bút nữ tự dưng thân thương, gần gũi nhau như chim một đàn rồi tự đặt tên, xưng danh cho mỗi người tên một loài chim. Họ cũng dí dõm kéo theo vợ chồng anh chủ bút vào “băng” của họ rồi khai sanh tên cho nhóm là Đàn Chim Việt.

Năm năm lặng lẽ trôi qua từ dạo đó, Sư rong ruổi khắp nơi, từ Đức sang Úc rồi từ Úc Sư vân du khắp mọi miền trên thế giới. Những chuyến di hành không phải vì thích ngao du làm người phiêu lãng mà để tiếp bước các bậc ân sư đem đạo từ bi rao giảng khắp nơi đúng theo tâm nguyện của Phật Đà, cũng có khi dừng chân trong mùa an cư, Sư viết sách và dịch kinh. Trước thời gian chuẩn bị tờ báo Viên Giác tròn 35 năm tuổi, các cây bút nữ lại tỏ ý “xuất chiêu” lần nữa với lý do bây giờ còn sức để viết, sợ chờ lâu quá cái vô thường nó đến, lúc đó e chữ nghĩa đi xa khó lòng gọi về để tô thắm thêm cho vườn hoa văn Viên Giác. Và như lần trước, cũng anh chủ bút Phù Vân nồng nhiệt ủng hộ khiến Sư thêm lần nữa phải gật đầu. Anh cộng sự nầy của Sư luôn nhìn xa thấy rộng chuyện sách vỡ, báo chí nên Sư đặt trọn sự tin cậy vào anh ấy. Và đặc biệt lần nầy có hiền thê của anh cùng cô em gái của một trong các cây bút nữ trước cùng góp mặt; bù lại có sự dừng chân đứng ngoài vì lý do sức khỏe của một cô khác, chị Hồng Nhiên đã góp mặt trong cuốn 1 Những Cây Bút Nữ. Sư nghĩ, các nhà văn nam lại để các nhà văn nữ lấn sân ghi bàn thêm lần nữa rồi, ảnh hưởng của cô bé Malala chăng?

Sư đặt quyển sách về chỗ cũ ngước nhìn đồng hồ, gần nửa đêm rồi còn gì. Không hiểu sao chợt dưng Sư muốn một mình thầm lặng ngắm trăng đêm rằm hôm nay, để nhớ lại những đêm trăng sáng nơi Viên Giác Tự, Hội An, ngôi chùa đầu đời khi Sư khoác áo nhật bình lục bình xuất gia ở tuổi 14-15. Lâu rồi Sư cứ mãi chúi đầu làm việc, hết tụng, giảng đến viết lách, dịch thuật, lên chương trình Phật sự, hoạt động cùng Chư Tăng Ni, đạo hữu v.v… đến độ không còn những giây phút thanh an riêng tư trầm mặc. Sư xuất gia nhưng nhập thế, đạo và đời Sư gánh vác hai vai bằng trái tim người con Phật. Giữa thiền môn và nhân thế Sư như dòng nước lặng lờ trôi, nhận và chuyên chở tất cả vui, buồn, thương, ghét của kiếp người. Sư cố gắng tập coi mọi việc xấu, tốt trên đời là thử thách, là kinh nghiệm sống để tôi luyện ý chí một nhà tu. Tất cả đều là thiện tri thức của Sư, Sư thật lòng tri ân bằng nhau người thương, kẻ ghét, đó há chẳng là làm theo lời Phật dạy hay sao?

Hannover là thành phố thuộc phía tây nước Đức, bây giờ trời hãy còn lạnh vì đang ở tiết đông hàn. Trăng rằm tháng giêng bên quê nhà tròn sáng trong mùa xuân chưa hết nhưng ở đây trăng lại lạnh co ro. Sư đứng lên, lấy áo ấm, khăn quàng khoác vào người rồi nhẹ nhàng bước ra khỏi phòng, lần theo các dãy hành lang quanh co để ra trước sân chùa. Mọi người trong chùa không biết có ai còn thức hay không nhưng bên ngoài đêm trăng thật êm ả vô cùng. Tượng Di Đà hiền hòa ngoài thềm trước chánh điện dường như cũng ngắm trăng cùng người đệ tử. Sư bước đến trước tượng khẽ chắp tay đảnh lễ rồi thong thả đếm bước trong sân. Mới trong ngày khắp nơi còn ồn ào rộn ràng lễ lạc vậy mà bây giờ vắng vẻ đến độ Sư còn nghe được tiếng lá rơi. Mọi sự đều trở về cùng đêm đen yên tĩnh bỏ lại một ngày nhộn nhịp cuồng quay, sao giống kiếp người như vậy, cũng quay cuồng theo dòng chảy cuộc đời, đến khi nhắm mắt về cùng hư không, cái vướng mắc sau cùng là một sát na hơi thở cũng trả lại cho đời. Ngắn ngủi thế, vô thường thế thì tại sao chúng sanh cứ mãi vướng vít, níu kéo nhau trong những vòng lẩn quẩn của đam mê vật chất, vương mang thù hận, ôm ấp yêu thương
Trăng bắt đầu nghiêng chênh chếch về vườn rau sau chùa, Sư đánh vòng đi theo ánh trăng, nhìn ngắm ngôi thiền tự với niềm hoan hỉ trong tâm, như một bà mẹ đang nhìn con mình trong giấc ngủ thanh an. Và như bị hoang tưởng, giữa vườn mùa đông còn trơ trụi lá hoa, cây cỏ Sư bỗng thấy một cánh Đại Bàng từ xa bay đến hạ cánh trước mặt sư, sau lưng Đại Bàng (Phù Vân) lục tục nào Vịt Bầu (Phương Quỳnh), Hoàng Hạc (Nguyên Hạnh HTD), Ngỗng Ngọc (Huỳnh Ngọc Nga), Công (Trần Thị Nhật Hưng), Bồ Câu (Hoa Lan), Bìm Bịp (Song Thư TTH), Tu Hú (Trần Thị Hương Cau) và Sơn Ca (Thi Thi Hồng Ngọc) tất cả cùng đáp xuống trước mặt Sư. Mỗi cánh chim đều ngậm một bông hoa khác loại và tự động đem cắm xuống giữa vườn, trong thoáng chốc những cánh hoa vươn lên làm rực sáng một góc vườn dưới ánh trăng nguyên tiêu vằng vặc sáng. Vui thích lẫn ngạc nhiên nhưng Sư vẫn còn tỉnh táo để biết đó là ảo giác của một người đến lúc cần ngơi nghỉ sau một ngày mệt nhọc. Sư nhắm mắt điều hòa hơi thở rồi mở mắt ra đúng lúc những hình ảnh trên cũng bắt đầu tan biến. Sư mỉm cười thanh thản, nghe hơi lạnh đang thấm dần vào thân, quay lưng Sư buớc theo lối cũ trở lại biệt phòng, ngang qua chánh điện, Sư đảnh lễ lần nữa tượng Di Đà rồi nhớ một đoạn kinh văn xưa, Sư đưa tay trỏ mặt trăng và tự hỏi “Ta đang nhìn trăng hay đang theo dõi ngón tay ta?”. Ngày mai, ngày mai Sư biết mình sẽ để trôi đêm trăng nguyên tiêu nầy theo vô thủy của thời gian…

— Huỳnh Ngọc Nga

(Torino – ITALIA, 11.05.2014)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8090)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 4899)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37244)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6146)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6111)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5753)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5644)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5923)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5459)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8770)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]