Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

46. Người Thầy khả kính (Thích Huệ Pháp)

17/06/201408:10(Xem: 22732)
46. Người Thầy khả kính (Thích Huệ Pháp)

 Tôi ít phước nên duyên thầy trò với thầy chậm hơn những bạn đồng tu khác, phải đến năm thứ tư ở xứ Ấn Độ thì mới có duyên gặp được thầy. Trong khi đó, những người bạn đồng tu khác qua Ấn Độ năm đầu là đã được diện kiến Thầy và được Thầy dìu dắt trên con đường tu học nơi xứ người. Có vị được Thầy chăm lo cho đến tận ngày ra trường những 8 năm học hết cấp tiến sĩ. Tuy nhiên, với tôi, duyên chậm nhưng lại được tiếp xúc gần, và rất gần với Thầy, và từ đó học được ở Thầy rất nhiều thứ, từ lời ăn tiếng nói, từ sự tu tập, hoằng pháp, nghiên cứu, viết dịch sách v.v… và áp dụng những gì Thầy chỉ bảo để tiến tu trên con đường học đạo.

 Nhớ lại những ngày đầu gặp Thầy ở chùa Viên Giác – Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ vào năm 2010, lúc đó vào mùa thu, Tăng Ni sinh đang du học tại Ấn tề tựu về Viên Giác để dự khóa tu học với Thầy 10 ngày. Trước đó vài năm, Thầy đã phát nguyện về Bồ Đề Đạo Tràng mỗi năm một lần trong mười năm để lạy Phật, hướng dẫn Tăng Ni sinh tu học. Năm đó, sau 4 năm trôi qua không gặp được Thầy vì chuyện này nọ, tôi cũng đã được diện kiến Thầy thật gần. Phong thái của Thầy thật giản dị và hiền hậu hơn là những gì tôi được nghe kể lại.

 Người ta kể rằng, trước đây Thầy khó tính vô cùng, Thầy khó từng chút một với mong muốn chúng đệ tử của mình nên người. Với những người khó tính, diện mặt lúc nào cũng đăm chiêu, ít cười khiến cho cơ mặt mau lão hóa hơn, già hơn. Ai thử xem đi, người lúc nào cũng cười, hoan hỷ thì diện mạo trong sáng hơn là kẻ sân hận, đa nghi nhiều. Thế nhưng, sự khó của Thầy trước đây lại chứa đựng hạt giống từ bi muốn cho người khác trưởng thành; và một khi chúng đệ tử trưởng thành hết rồi, đi ra làm trụ trì nơi này nơi kia rồi, thì Thầy chuyển nóng thành mát, chuyển khó thành dễ, chuyển đăm chiêu thành diện mặt của Ngài Di Lặc Bồ Tát.

 Và tôi được gặp Thầy vào thời điểm như thế.

 Tâm Thầy rộng lượng và bao dung. Thầy ban bố tài thí đến cho mọi học Tăng, học Ni mà Thầy có duyên gặp. Có lần khi ở Viên Giác bên Đức, Thầy đưa tôi một chồng giấy tờ từ nhiều năm trước bảo tôi giúp Thầy liệt kê lại tất cả giấy tờ tài chính mà Thầy giúp cho học Tăng, học Ni từ năm 1994 đến bây giờ. Tôi lúc đó phải ôm một chồng giấy tờ đi Wilhemshaven vừa thăm Phật tử ở đó vừa tranh thủ thời gian để kiểm kê. Qua một tuần rà soát, thì mới ra được con số Tăng, Ni chỉ tính riêng ở Ấn Độ mà Thầy đứng ra giúp là 170 người, với số tiền hơn nửa triệu Euro. Đó là con số chỉ tính riêng ở Ấn Độ, còn chưa tính con số Thầy giúp cho học Tăng ở các nước khác như Việt Nam, Đài Loan, Thái Lan, Miến Điện, Hoa Kỳ, Đức Quốc; nơi nào có Tăng, Ni sinh Việt Nam cần là Thầy đưa cánh tay ra giúp đỡ. Ai cũng biết, sinh viên thì nghèo, được sự giúp đỡ ít nhiều cũng cảm thấy an lòng khi ở xa quê hương. Thầy chưa từng đặt chân về đất mẹ Việt Nam từ khi ra đi, nhưng tâm Thầy luôn hướng về đất mẹ, luôn hướng về người Việt Nam, cùng dòng máu, cùng tiếng nói như thế.

 

 Lần gặp đầu tiên ấy là vào tháng 10 năm 2010, khóa tu học 10 ngày diễn ra rất nhanh chóng hơn mình tưởng tượng. Sự đời là thế, cái gì không thích thì lại thấy thời gian rất chậm, cái gì mình thích thì thời gian dường như lại chóng qua. Cho đến chỉ còn vài ngày nữa là khóa tu học chấm dứt thì đại nhân duyên của tôi với Thầy mới xuất hiện và từ đó đến nay khiến mối liên hệ giữa tôi với Thầy thêm gắn bó, tình thầy trò thêm sâu đậm.

 Số là thường khi kết thúc khóa tu học tại Bồ Đề Đạo Tràng, sẽ có một chuyến dã ngoại, thầy trò cùng đi thăm một thánh tích nào đó. Năm ấy, thầy chọn đi núi Kê Túc nơi Ngài Ca Diếp giữ bình bát của đức Thế Tôn nhập thiền định tại núi này để đợi đức Phật Di Lặc ra đời. Xe đi từ sớm, Thầy thì lúc nào cũng đeo cái đãy bên mình vì không có ai làm thị giả. Ở Việt Nam khi đi đâu với sư phụ hay với các bậc Trưởng lão, Tăng, ni trẻ chúng tôi thường nhận lãnh giữ hộ những vật ấy để các Ngài nhẹ người. Thấy thế, tôi xin Thầy để tôi giữ hộ. Thầy Như Tú nói nửa đùa và thật rằng: thôi thầy Huệ Pháp làm thị giả cho Ôn luôn đi. Thế là tôi trở thành thị giả bất đắc dĩ của Thầy.

 Và từ đó đến sau này, mỗi khi đi ra nước ngoài có duyên gặp Thầy, tôi lại được làm thị giả cho Thầy, hầu cận Thầy, làm thư ký vi tính cho Thầy, chụp hình cho Thầy v.v… Và cũng từ đó, tôi mới khám phá ra một kho tàng trí tuệ sống mà Thầy sở hữu. Thầy sở hữu trí nhớ tuyệt vời, những bài hát, bài thơ học từ nhỏ, Thầy đọc vanh vách. Trí nhớ siêu đẳng đó cũng giúp Thầy nói, nghe, đọc và viết lưu loát được nhiều ngôn ngữ khác nhau như tiếng Anh, Pháp, Đức, Hoa, Nhật. Nói thì khó tin nhưng tận mắt thấy thì mới hiểu. Có lần khi dự lễ khánh thành chùa Việt Nam tại Nhật, Thầy được Hòa Thượng Trụ Trì chùa đó mời làm thông dịch cho ông Thị trưởng vùng tới dự. Thầy đối đáp và dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Việt cho bà con kiều bào nghe. Đến tận bây giờ, Thầy đã có hơn 60 tác phẩm viết và dịch từ nhiều ngôn ngữ khác nhau sang tiếng Việt và ngược lại. Sức làm việc của Thầy phải nói là hơn người.

 Trong chuyến lên núi Kê Túc chiêm bái Tôn giả Ma Ha Ca Diếp, tôi còn được nghe Thầy đọc lại những vần thơ Kiều đã quên tự thuở nào. Đường lên núi cao và khó đi nhưng nhờ thế mà huynh đệ chúng tôi lại có dịp nghe Thầy ngâm Kiều. Cứ mỗi lần nghỉ chân là được quây quần bên Thầy nghe ngâm thơ; nhờ thế mà đoạn đường leo cao cứ ngỡ không cao, đoạn đường xa tít cứ ngỡ như bên cạnh.

 Tôi học được từ Thầy nhiều thứ lắm, kể ra không hết và đến giờ vẫn áp dụng trong những chuyến đi, khi hoằng pháp, lúc tu tập. Thầy khuyến khích tôi dịch và viết sách. Có lần trong lúc thầy trò chuẩn bị rời Sri Lanka để về Ấn Độ, cả đoàn ra tiệm sách mua vài cuốn về đọc thì Thầy trao tay đưa một cuốn rồi nói Huệ Pháp dịch cho thầy, tháng 10 tới thầy qua trình cho thầy xem. Nếu tự tôi làm có thể không thể xong một cuốn sách chuyên về phê bình lịch sử, nhưng nhờ sự khuyến khích của Thầy về tinh thần, sau ba tháng năm đó tôi đã trình cho Thầy xem bản dịch. Những chỗ nào còn vấp hay chưa rõ, Thầy dành thời gian của mình để cùng tôi xem lại. Hơn 100 trang sách, thế nhưng vì thương tưởng hàng hậu học, Thầy đọc liền một mạch trong hơn 2 tiếng đồng hồ, để rồi viết những lời giới thiệu thật dễ thương cho đầu sách.

 Thầy là thế, một khi đã hứa với ai điều gì, đã nói điều gì đều không bao giờ quên và cố làm bằng được. Tôi học Thầy ở nơi đúng giờ. Và giờ tôi cũng áp dụng điều đó vô cuộc sống của mình. Tôi qua Viên Giác – Đức Quốc để ý thấy, thời tụng kinh sáng không khi nào Thầy bỏ. Thế nhưng điều đó chưa ấn tượng bằng việc đúng giờ của Thầy. Thời tụng kinh sáng lúc 5h45, chúng tôi tập trung lúc thì trước 10 phút, lúc thì trước 5 phút ở hậu Tổ chờ Thầy. Cứ ngỡ nếu Thầy ra sớm 5 hay 10 phút thì cho xá Tổ lên chánh điện, nhưng không bao giờ. Khi kim giây đồng hồ quay về số không của 5h45 thì Thầy mới xá Tổ và dẫn đại chúng lên chánh điện. Ở đó được hơn tháng nhưng không bao giờ thấy Thầy đi sớm hay trễ vài giây phút như thế. Ăn cơm xong, Thầy dạy: Huệ Pháp đúng 8 giờ ra sảnh trước đợi thầy rồi đi. Thì đúng 8 giờ kém 5 phút Thầy đã có mặt đợi. Sự đúng giờ giấc cũng là một phương pháp tu tập mà Thầy không bỏ bê.

 

 Đó vẫn chưa phải ấn tượng bằng việc Thầy đi… lượm rác. Một vị Hòa Thượng đạo cao đức trọng như thế tôi chưa bao giờ thấy đi lượm rác cả. Thế nhưng, ở Âu châu có một vị Hòa Thượng như thế. Có thể tôi ít đi, chưa thấy cũng nên. Với Thầy đó là lần đầu tiên trong đời tu hành đến giờ tôi thấy. Chiều đó, sau 3 ngày chùa tổ chức lễ hội Quán Thế Âm, khi mọi người ra về hết, Thầy gọi tôi tới và dạy rằng sau khi ăn cơm chiều xong, xuống hầm lấy cái kẹp rác theo Thầy. Tôi chỉ nghĩ là Thầy bảo tôi làm chứ Thầy sao làm. Nên tôi chỉ lấy có một cái cho riêng mình. Xong khi lên thì thấy Thầy cũng cầm sẵn cái bị và đồ kẹp rác từ bao giờ đợi tôi. Tôi không thốt nên lời cứ theo sau Thầy. Thầy một bên đường, tôi một bên đường, đi từ chùa đến bãi đỗ xe, cỡ 200 mét, cứ thế, hai thầy trò lúc thẳng người, lúc cong người, mắt căng ra xem rác ở đâu để nhặt. Thầy nói, Thầy làm chuyện này hơn 20 năm rồi, lúc nào cũng vậy, mỗi khi mùa lễ hội kết thúc, lúc mọi người về nhà hết, Thầy đi lượm rác mà họ vô tình hay cố ý để lại, làm sạch môi trường sống, cũng là một pháp môn tu học mà Thầy đã thực hiện.

 

 Với tuổi của Thầy bây giờ, công việc đó cũng chưa là gì cả, bởi thỉnh thoảng mới làm một lần, nhưng với việc siêng tu lạy Phật trong ba tháng an cư mới đích thực là Thầy. Vì may mắn được làm thị giả của Thầy, được làm thư ký ngắn hạn cho Thầy nên mới tiếp xúc được những điều mà Thầy ít nói ra cho người khác biết. Hơn 30 năm qua, Thầy đã phát nguyện lạy nhất tự nhất bái các bộ kinh như Ngũ Bách Danh, Tam Thiên Phật Danh, Kinh Vạn Phật, Kinh Pháp Hoa, và Kinh Đại Bát Niết Bàn. Trẻ khỏe như huynh đệ chúng tôi cũng không bằng sức khỏe mà Thầy sở hữu. Lần đầu về Viên Giác thăm vào dịp An cư kiết hạ, tối đầu tiên tụng kinh mới thấy rõ sự kiên trì và tinh tấn phi thường của Thầy. Chúng tôi có lúc còn quỳ lạy, thế nhưng với Thầy hai chữ quỳ lạy không có trong tâm tưởng của Thầy. Mỗi thời tụng kinh tối 350 lạy, Thầy vẫn đều đặn đứng lên lạy xuống như thế. Một bộ kinh Đại Bát Niết Bàn chúng ta ngồi đọc đã thấy mệt, huống hồ, Thầy lạy trong 30 mùa hạ liên tiếp như thế. Phải kiên trì, tinh tấn lắm với sức của một vị Hòa Thượng niên cao lạp trưởng mới thành tựu được.

 Tôi còn nhiều điều để nói về Thầy lắm, vài dòng trang giấy trên chẳng thấm gì so với công hạnh hơn 50 năm cuộc đời tu hành của Thầy. Tôi lại chỉ được diện kiến Thầy vài tháng trong một năm, vào những năm cuối chương trình tiến sĩ thôi, giờ thì về lại Việt Nam lo Phật sự rồi thì lại càng khó hầu thăm Thầy hơn. Nay đây, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 50 cuộc đời tu học của Thầy, những kỷ niệm trong tôi như sống dậy, ký ức dâng trào ngòi bút, xin viết vài dòng ghi lại kỷ niệm. Nếu con có viết chỗ nào còn chưa đúng, xin Ôn hoan hỷ cho con.

 

 Tôi viết cho bạn đọc những kỷ niệm của tôi với Thầy, có chỗ nào thêm thắt, chỗ nào quá mà bạn đọc biết thì xin lượng tình chỉ giáo. Bài viết này nói lên công hạnh của một bậc xuất sĩ, đọc cũng là để học vậy.

 

Viết trong Mùa Phật Đản Vesak 2014

Tại chùa Kỳ Viên Trung Nghĩa – Nha Trang.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/09/2018(Xem: 7837)
Chúng tôi hổ thẹn mang nặng thâm ân 2 bậc Thầy lớn, đã để lại trong đạo nghiệp mình nhiều dấu ấn giáo dưỡng thâm trọng, dù cho có nghìn đời cố gắng cũng chưa thể báo đáp hết:
03/09/2018(Xem: 18112)
Nhiều lời Đức Phật dạy trong kinh điển có thể được nhìn thấy qua nhà thơ Bùi Giáng. Toàn thân Bùi Giáng chính là Khổ Đế hiển lộ qua cái được thấy. Tương tự, với Tập Đế. Nụ cười của Bùi Giáng chính là Đạo Đế hiển lộ an lạc qua cái được thấy. Tương tự, với Diệt Đế. Bùi Giáng đùa giỡn ca ngâm với lời lời ẩn nghĩa chính là diệu chỉ tâm không dính mắc của Kinh Kim Cang, hiển lộ qua cái được thấy và cái được nghe. Bùi Giáng đi đứng nằm ngồi giữa phố như không một nơi để tới chính là diệu chỉ sống với cái Như Thị của Kinh Pháp Hoa, hiển lộ qua cách thõng tay vào chợ. Bùi Giáng viết xuống chữ nghĩa xa lìa có/không, dứt bặt đúng/sai, hễ viết xuống là gửi vào tịch lặng bờ kia chính là diệu chỉ gương tâm rỗng rang của Bát Nhã Tâm Kinh. Đó là hình ảnh nhà thơ Bùi Giáng trong tâm tôi nhiều thập niên qua.
23/08/2018(Xem: 6325)
Tôi thật may mắn được biết đến và là học trò của Hòa thượng Thích Minh Châu. Tôi có may mắn lớn này là nhờ bác Vũ Chầm, Chủ tịch VinaGiày, một tấm gương sáng về tu tập và phụng sự. Thế rồi mỗi lần từ Hà Nội vào Sài Gòn là tôi thường tìm mọi cách đến thăm Thầy. Mỗi lần được bên Thầy là một cơ hội được học hỏi, được dạy dỗ và chỉ bảo, được nhận năng lượng và bình an.
23/08/2018(Xem: 8442)
Thường trực BTS GHPFVN tỉnh Khánh Hòa vừa ký Cáo phó kính tiếc báo tin HT.Thích Đức Lưu, Ủy viên Ban Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, Trưởng BTS GHPGVN huyện Cam Lâm, Ủy viên Ban Tăng sự Phật giáo tỉnh, trụ trì chùa Pháp Vân tân viên tịch. Theo cáo phó, HT.Thích Đức Lưu do bệnh duyên.đã thuận thế vô thường, thâu thần viên tịch vào lúc 18 giờ, ngày 21-8-2018 (11-7-Mậu Tuất) tại chùa Pháp Vân, xã Cam Hòa, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa . Trụ thế 64 năm, hạ lạp 42 năm. Lễ nhập kim quan lúc 15g, ngày 22-8-2018 ( 12-7-Mậu Tuất), kim quan được tôn trí tại chùa Pháp Vân Lễ viếng bắt đầu từ 8 g, ngày 23-8-2018. Lễ tưởng niệm vào lúc 14g, ngày 25-8-2018 (nhằm 15-7-Mậu Tuất), sau đó 15g phụng tống kim quan nhập bảo tháp trong khuôn viên chùa Pháp Vân, Cam Lâm.
23/08/2018(Xem: 11929)
Hòa thượng Thích Quảng Độ trả lời phỏng vấn tiếng anh chia sẻ với Phật tử thế giới
18/08/2018(Xem: 5830)
Lễ Huý Nhật Lần thứ 1 Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Thủ Thích Tâm Châu tại Chùa Phật Quang, Victoria, Úc Châu. Thứ Bảy, 18-8-2018 Chương Trình Lễ Huý Nhật: - Cung thỉnh chư Tôn đức Tăng Ni quang lâm - Cung An Chức Sự (NS Thích Nữ Chân Kim) - Nghi cúng tiến Giác Linh Đức Trưởng lão Hòa Thượng - Lễ Chào Phật Giáo Kỳ và một phút nhập Từ Bi Quán - Tuyên bố lý do và giới thiệu chư Tôn Đức tham dự ( MC TT Thích Nguyên Tạng) - Cung tuyên Tiểu Sử Cố Trưởng Lão Hòa Thượng ( TT Thích Tâm Phương - Lời Đạo Tình của Trưởng Lão HT Thích Huyền Tôn, Phó Thượng Thủ GHPGVNTTG, Tăng Giáo Trưởng GHPGTNHNUĐLTTL Viện Chủ Chùa Bảo Vương - Lời tưởng niệm về Đức Trưởng Lão HT Thích Tâm Châu ( HT Thích Tịnh Đạo) - Dâng hoa cúng dường Giác Linh Đức Trưởng Lão Hòa Thượng - Ngâm thơ của Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Truy niệm Giác Linh. (Phật tử Tuệ Minh) - Cảm Tạ của ban tổ chức. (ĐĐ Thích Chân Phong) - Cúng Dường Trai Tăng và hoàn mãn.
15/08/2018(Xem: 7877)
Nếu chúng ta từ phương diện thư tịch nhìn về quá trình du nhập và phát triển Phật giáo tại Việt Nam, cho thấy số lượng kinh sách trước tác hay dịch thuật của người Việtquá ư khiêm tốn,nội dung lại thiên về thiền họcmang đậm nét cách lý giải của người Hoa về Phật học Ấn Độ, như “Khóa Hư Lục”, “Thiền Uyển Tập Anh” (禪苑集英), “Thiền Tông Chỉ Nam”, “Thiền Tông Bản hạnh”…Điều đó minh chứng rằng, Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng khá sâu nặng cách lý giải Phật học của người Hoa. Nguyên nhân nào dẫn đến sự ảnh hưởng này, theo tôi ngoài yếu tố chính trị còn có yếu tố Phật giáo Việt Nam không có bộ Đại tạng kinh bằng Việt ngữ mang tính độc lập, để người Việt đọc hiểu, từ đó phải dựa vào sách của người Hoa, dẫn đến hiểu theo cách của người Hoa là điều không thể tránh. Nếu thế thìchúng ta nghĩ như thế nào về quan điểm độc lập của dân tộc?Tôi có cảm giác như chúng ta đang lúng túng thậm chí mâu thuẫngiữa một thực tại của Phật giáo và tư tưởng độc lập của dân tộc.
13/08/2018(Xem: 6926)
Cách đây hơn một tuần, trong khi tìm kiếm tài liệu để viết lại tiểu sử tóm tắt của Ni Sư Thích Nữ Giới Hương với các chi tiết chọn lọc, cần thiết, đã được cập nhật,theo ý của chúng tôi. Chúng tôi mới bỗng nhớ ra rằng: Năm 1978, lúc Ni Sư mới 15 tuổi, Ni Sư xuất gia với Sư Bà Hải Triều Âm (Đại Ninh - Việt Nam). Như vậy, tính đến năm 2018 này, là năm kỷ niệm 40 NĂM XUẤT GIA CỦA NI SƯ THÍCH NỮ GIỚI HƯƠNG. Tuy mới biết và được hầu chuyện Ni Sư chỉ năm mười phút ngắn ngủi tại Chùa Hương Sen, rồi sau đó đọc một số tác phẩm, những bài pháp luận, thuyết trình… của Ni Sư. Chỉ ngần ấy thôi, nhưng chúng tôi vẫn luôn lưu giữ cái cảm nhận rất chân thành và nghiêm túc này: Rằng Ni Sư Thích Nữ Giới Hương là người rất mực khiêm cung, suy nghĩ cẩn mật. Rằng Ni Sư là người kiên tâm trì chí tu học và hành Đạo suốt 40 năm ấy; Rằng Ni Sư Thích Nữ Giới Hương là “Người gieo duyên Phật pháp, gieo duyên Đạo”* không ngừng nghỉ và không biết mỏi mệt. Và rất nhiều đức khác mà chúng tôi kính trọng, ngưỡng vọng
11/08/2018(Xem: 7843)
Hòa Thượng Thích Huyền Tôn: Chúc thọ Đức Đại Thụ Tăng Thống Thích Quảng Độ. Cung Kính Chúc Thọ Đại Thụ Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ Trí Lực câu viên Đạo Lực Tu Di ! Úc Châu Tiểu đệ HT Thích Huyền Tôn (91 tuổi).
03/08/2018(Xem: 24957)
Hòa Thượng Thích Minh Tuyền vừa viên tịch tại Nhật Bản, Hòa Thượng THÍCH MINH TUYỀN thế danh LÊ MINH TUYỀN sanh ngày 08 tháng 09 năm 1938 (Mậu Dần), tại thôn Bình Hội, thị trấn Chợ Lầu, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Xuất gia năm 7 tuổi (Năm Ất Dậu (1945) tại Chùa Bửu Tích thuộc thôn Bình Liêm, xã Phan Rí Thành, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Năm 1970, HT đến du học tại Nhật Bản và lưu trú đến ngày nay. Vì tuổi cao sức yếu, Nài đã thuận thế vô thường viên tịch vào lúc 3giờ 35 phút sáng ngày 22 tháng 08 năm 2017 (nhằm ngày 01 tháng 07 nhuần năm Đinh Dậu), trụ thế 80 năm, 60 hạ lạp. Chương trình Tang Lễ của Hòa Thượng Tân Viên Tịch sẽ được công bố trong thời gian sớm nhất. Ngưỡng mong Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni và Quý Đồng Hương Phật Tử gần xa nhất tâm cầu nguyện Giác Linh Tân Viên Tịch Thích Minh Tuyền Cao Đăng Phật Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]