Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sư Bà Đàm Lựu, Viện Chủ Chùa Đức Viên, Hoa Kỳ

09/04/201318:12(Xem: 10699)
Sư Bà Đàm Lựu, Viện Chủ Chùa Đức Viên, Hoa Kỳ

 

Su Ba Duc Vien

Tiểu Sử

Sư Bà Đàm Lựu

Viện Chủ Đức Viên Ni Tự

Tại San Jose, California, Hoa Kỳ

(1933 – 1999)

---o0o---

I) Thân thế:

Thế danh của Sư Bà cũng chính là Đạo Hiệu hiện tại. Song Thân khó nuôi con, nên lúc 2 tuổi hai Cụ đã đem vào chùa cúng cho Sư Bà Đàm Soạn, Trú trì chùa Cự Đà và được Sư Cụ đặt tên là Đàm Lựu. Phụ thân của Sư Bà là Cụ Ông Đặng Văn Cán và Mẫu thân là Cụ Bà Nguyễn Thị Cả. Sư Bà sanh vào ngày 13 tháng 6 năm Quý Dậu, 4.811 Quốc Lịch; nhằm ngày 04 tháng 08 năm 1933 Tây lịch; tại làng Tam Xá, xã Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, Bắc Việt Nam.

II) Xuất gia, Thọ giới và Tu học:

Năm 1948, Nghiệp Sư, tức Sư Cụ Đàm Soạn, nhận thấy Sư Bà là người tuy còn nhỏ tuổi, nhưng chí nguyện thì cao vời, tâm nguyện lại bao la nên được truyền thụ Sa Di Ni Giới tại chùa Cự Đà, Hà Đông, thuộc sơn môn Tổ Trung Hậu và Đống Đồ. Năm ấy Người tròn 16 tuổi. Thụ giới Sa Di Ni thì 16 tuổi, nhưng thật sự đã được Nghiệp Sư chính thức cho thế phát xuất gia khi còn là “Bạch Xỉ”.

Tuổi thì vị thành niên, nhưng lòng ham tu, hiếu học; nhất là chí nguyện xuất trần, thì người thành niên cũng hiếm ai bì kịp; do vậy, Sư Cụ Nghiệp Sư đã không ngần ngại cho đi tham học hầu hết các Chùa trong sơn môn tại Miền Bắc như Cự Đà, Thanh Nhàn, Nhân Hòa, Từ Hàng, Đống Đồ, Trung Hậu, Vân Đồ, Đức Viên…

Năm 1951, Đại Giới Đàn tổ chức tại Chùa Quán Sứ, Hà Nội; quy tụ hầu hết các bậc Cao Tăng trong hàng Giới Sư. Nhận thấy đây là một Đại Giới Đàn đặc biệt, thêm vào đó, sức học và chí tu của Sư Bà cũng đã vững chãi, nên Sư Cụ Nghiệp Sư đã hướng dẫn Sư Bà đi đảnh lễ Quý Tổ cầu xin Quý Ngài Yết Ma cho thêm tuổi để được thụ giới; vì lúc ấy Sư Bà mới hơn 19 tuổi. Nhờ vậy, Sư Bà đã được thụ Tỷ Khưu Ni Bồ Tát Giới tại Đại Giới Đàn trên. Trong hàng Giới Sư Tăng lúc bấy giờ có các Tổ như Pháp Chủ Mật Ứng, Thượng Thủ Tuệ Tạng, Pháp Chủ Đức Nhuận, Cao Tăng Tố Liên, Trí Hải..., bên Ni có chư Hòa Thượng Ni như Sư Cụ Đàm Soạn, Sư Cụ Trịnh Xá, Sư Cụ La Hán… Sau khi đắc giới được Sư cụ Nghiệp Sư cho hầu cận làm thị giả.

Đầu năm 1952, Sư Cụ Nghiệp Sư được Chư Tôn Đức Tăng, Ni thỉnh cử vào Nam nhận lãnh ngôi vị Trú Trì Chùa Dược Sư tại Gò Vấp, Sư Bà được theo hầu cận. Tiếp nhận xong Chùa, Sư Cụ đi thỉnh ý Chư Tôn Đức Tăng Ni tại địa phương để được mở Ni trường, đào tạo Ni tài. Thế là Chùa Dược Sư được biến thành Ni trường Dược Sư. Sư Bà trở thành một trong những Ni Sinh ưu tú đầu tiên của Ni trường nầy. Tại đây, hai chương trình Nội Điển và Ngoại Điển được chú trọng song song, nên:

Năm 1960, Sư Bà thi đỗ Tú Tài.

Năm 1961, sau 9 năm tu học tại Ni Trường Dược Sư mãn khóa, Sư Bà về lưu trú tại Chùa Phước Hòa, Sàigòn.

Năm 1964, được Sư Bà Đàm Hướng giới thiệu đi du học ở Tây Đức, ngành Xã Hội Học. Thời gian lưu học tại đây, Sư Bà vừa học vừa hướng dẫn tinh thần cho Sinh viên Việt Nam du học.

Năm 1969, tốt nghiệp ngành Xã Hội Học, Sư Bà về nước nhận lãnh Phật sự thuộc sở học, sở tu của mình.

III) Tu Tập và Hành Đạo:

Năm 1970, Sư Bà được Chư Tôn Đức Tăng Ni tín nhiệm giao phó Phật sự trong chức vụ Giám Đốc Cô Nhi Viện Lâm Tỳ Ni tại Sàigòn.

Năm 1977, Sư Bà tìm đường vượt biên tại Vũng Tàu; đến đảo Kuchin-Malaya, hoạt động Phật sự tại đây gần 2 năm.

Năm 1979, Sư Bà được Hòa thượng Thanh Cát tọa chủ Chùa Giác Minh, Palo Alto bảo lãnh sang Hoa Kỳ. Năm 1980, Hòa Thượng đề cử Sư Bà về vùng San Jose để hành đạo và sáng lập Chùa Đức Viên.

Khởi đầu cho Chùa Đức Viên, Sư Bà thuê một ngôi nhà nhỏ hẹp, tọa lạc tại số 2003, Evelyn Ave, San Jose CA 95122. Chùa tuy nhỏ hẹp, nhưng tấm lòng của người hướng dẫn tinh thần lại bao la; do vậy, những Phật sự khiêm tốn, nhưng vô cùng quan yếu sau đây được khởi sự:

- Tu Bát Quan Trai, tụng kinh, thuyết giảng, đáp ứng mọi nhu cầu Tôn Giáo cho quần chúng Phật tử ly hương;

- Mở lớp dạy Việt Ngữ đầu tiên tại vùng San Jose;

- Sinh hoạt thanh thiếu niên, thành lập Gia Đình Phật Tử mang tên Đức Viên, quy tụ trên 200 em;

- In kinh, sang băng giảng để cúng dường quý Chùa, tặng các Thư viện, ấn tống cho Phật Tử, gửi tặng các trại tỵ nạn Đông Nam Á.

Vì nhu cầu tu học, quần chúng Phật tử và đồng hương quy tụ quá đông, ngôi Chùa củ đã không đủ nơi dung chứa để đáp ứng nhu cầu Phật sự nên:

Năm 1984, Sư Bà phát động Phật sự kiến lập Chùa chính thức. Khởi đầu cho công tác Phật sự khá quy mô này, Sư Bà nghĩ ra một cách mà mọi người giàu nghèo đều có thể đóng góp công sức, tài vật để gieo trồng căn lành với Tam Bảo, đó là thu góp đồ phế thải: lon nhôm, ve cha, giấy báo, thùng cát-tông… bán để gây quỹ xây chùa. Kẻ góp công sức, người giúp tài vật; kết quả:

Năm 1985, mua được khu đất tương đối rộng và một ngôi chùa cũ để thỉnh Phật về an vị nơi đây tiếp tục sự nghiệp tu tập, hoằng truyền Chánh Pháp.

Năm 1986, nhân duyên Phật Pháp đưa đến, Sư Bà được ủng hộ và khuyến khích từ chư Tôn Đức Tăng, Ni đến thập phương thiện tín, nên đã mua tiếp lô đất kế cận với tâm nguyện không những hoằng truyền Chánh Pháp, mà còn mang văn hóa Dân tộc-được gói ghém qua hình ảnh ngôi chùa-vào đất lạ. Diện tích chung cho cả hai lô đất này là 94,000 bộ vuông; đủ rộng để xây một ngôi chùa mang tính biểu trương cho một nền Văn Hóa cổ truyền Dân tộc gần 5,000 năm.

Năm 1991, ngôi Đại Tự Đức Viên chính thức đặt viên đá đần tiên để khởi sự một công trình kiến thiết đúng với tầm cỡ hầu đáp ứng nhu cầu tu học của Ni Chúng và quần chúng Phật tử.

Năm 1995, ngôi Đại Điện được giấy phép chính thức sinh hoạt. Đáp ứng khả dĩ một số những nhu cầu Phật sự quan trọng. Tuy vậy, đây cũng chỉ mới đạt được phân nửa tâm nguyện kiến thiết của Sư Bà đã được “bổ xứ Phật sự nơi khác”!!!

Từ ngày ngôi Đại Điện Đức Viên chính thức sinh hoạt đến nay, các Phật sự sau đây được mở rộng:

1) Về phần thuyết giảng:

Đúng với hạnh nguyện, Pháp môn vô lượng, thệ nguyện học; Sư Bà đã cung thỉnh Chư Tôn Đức thuộc nhiều truyền thống phật Giáo: Việt Nam, Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Đại Hàn, Nhật Bản, Lào, Mỹ… về thuyết giảng. Riêng truyền thống Phật Giáo Việt Nam đã có các bậc Cao Tăng và Pháp Sư sau đây đến thuyết giảng: Hòa Thượng Tâm Châu (Canada); Hòa Thượng Thanh Cát, Hòa Thượng Mãn Giác, Hòa Thượng Hộ Giác, Hòa Thượng Giác Nhiên, Hòa Thượng Thanh Đạm (Hoa Kỳ); Thiền Sư Nhất Hạnh (Pháp); Hòa Thượng Tịnh Hạnh (Đài Loan); Thiền Sư Thanh Từ (Việt Nam); Thượng Tọa Như Điển (Tây Đức); Hòa Thượng Minh Tâm, Thượng Tọa Thiện Huệ, Thượng Tọa Nhất Chân (Pháp); Hòa Thượng Như Huệ (Úc); Thượng Tọa Trí Minh (Na Uy); Thầy Huyền Diệu (Ấn Độ). Ngoài ra, Sư Bà Y luật Phật chế cung đón tất cả chư vị Cao Tăng, Cao Ni thăm viếng Mỹ quốc có dịp ghé qua thiểm tự Đức Viên để Ni Chúng được đảnh lễ hầu tăng trưởng đạo phong, đạo lực.

2) Chiêm bái Phật Tích, Thánh Tích và Danh Lam Cổ Tự:

Nhằm phát huy niềm tin, thâm tín Tam Bảo, nổ lực tu tập và tích cực Phật sự. Sư Bà đã tổ chức nhiều chuyến hành hương chiêm bái phật Tích tại Ấn Độ; các chuyến hành hương chiêm bái Thánh Tích và thăm viếng danh lam cổ tự tại các quốc gia Phật Giáo vùng Đông Nam Á như Trung Quốc, Thái Lan, Miến Điện…

3) Truyền bá giáo lý:

Trong Hạnh nguyện Hiển Chánh, phá tà, Sư Bà không những tiếp tục cho in ấn kinh sách và băng giảng để phổ biến trong quảng đại quần chúng, mà còn hỗ trợ các đài phát thanh Việt Ngữ có chương trình phát thanh Giáo lý Phật Đà.

4) Đào tạo Ni Chúng và giúp đỡ hậu học:

Trong hạnh nguyện tiếp dẫn hậu lai, báo Phật Ân Đức, Sư Bà đã giáo dưỡng Ni Chúng hữu duyên về xuất gia tu học tại đạo tràng Đức Viên nghiêm túc; gửi Ni Chúng đi tham học tại các trung tâm tu học tại các quốc gia; cho Ni chúng theo học kiến thức phổ thông tại các trường Đại học Mỹ; ngoài ra, Sư Bà còn yểm trợ tài chánh cho các Tăng, Ni Sinh du học tại các trường Đại học ở Ấn Độ, Đài Loan, Hoa Kỳ cũng như bảo trợ các trường Phật Học tại quê nhà như Bà Đá, Quán Sứ (Hà Nội), Vạn Hạnh, Vĩnh Nghiêm (Sàigòn), và các tỉnh miền Trung, Nam như Huế, Quảng Nam, Thủ Đức, Trà Vinh…

5) Bảo tồn Di Tích và phát huy cơ sở:

Bảo tồn di tích, phát huy cơ sở Phật Giáo là một trong những Phật sự mà Người hằng quan tâm; do vậy; Sư Bà đã tích cực yểm trợ các chương trình trùng tu các Cổ Tự và danh lam tại Việt Nam; hưởng ứng các chương trình xây cất các tu viện tại Việt Nam, Trung Hoa, Ấn Độ…

6) Bảo tồn Văn Hóa và thể hiện Lòng Từ:

Để bảo tồn văn hóa, thể hiện qua danh ngôn: “Tiếng Ta còn, Nước Ta còn”, Sư Bà đã mở trường Việt Ngữ Đức Viên để cho con em trau dồi Việt Ngữ. Thể hiện lòng từ bằng cách khuyến khích các Phật tử và đồng hương giúp đỡ đồng bào tại các trại tỵ nạn, và gần đây nhất là tích cực trong việc yểm trợ đồng bào bị thiên tai tại Việt Nam cũng như vùng Nam Mỹ; thăm viếng tù nhân, giúp đỡ các trại cùi và các trung tâm trẻ em tật nguyền…

IV) Những ngày cuối cùng:

Hữu thân hữu bệnh, hữu sanh hữu tử đó là di huấn nằm lòng trong kinh Phật. Sư Bà bị ít nhất là 3 chứng bệnh nan y đã được Bác sĩ dự báo trong hơn ba năm qua: tiểu đường, ung thư và bệnh đông máu. Nhưng, tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp và ý lực phục vụ chúng sanh là cúng dường Chư Phật đã khiến Sư Bà quên đi là đang là bệnh nhân cần được chữa trị; do vậy, đến khi căn bệnh phát sanh tới hồi nguy kịch, thì Bác sĩ đành bó tay!!!

Điều cần ghi nhận nơi đây là, mặc dù Phật sự đa đoan, nhất là những tháng gần đây khi cơn bệnh được Bác sĩ thông báo là không trị được, nhưng Sư Bà vẫn thản nhiên trong việc hành trì Pháp Môn không lúc nào xao lãng. Pháp Môn hành trì của Sư Bà là Trì Chú và Niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.

Sư Bà chính thức xả bỏ báo thân, thâu thần nhập diệt, liên hoa hóa sanh vào lúc 21 giờ 27 phút, ngày 09 tháng 02 năm Kỷ Mão; nhằm ngày 26 tháng 03 năm 1999. Thọ thế 67 năm; 48 năm hạ lạp.

Lễ nhập quan nhục thân vào lúc 15 giờ, ngày 11 tháng 02 năm Kỷ Mão; nhằm ngày Chủ Nhật, 28 tháng 03 năm 1999.

Lễ Di Quan Trà Tỳ vào lúc 09 giờ 30 ngày 17 tháng 02 năm Kỷ Mão; nhằm ngày Thứ Bảy, 03 tháng 04 năm 1999.

Nam Mô Đức Viên Ni Tự Đường Thượng,

Liên Hoa Hóa Sanh, Ma Ha Tỷ Khưu Ni Bồ Tát Giới

Đàm Lựu Giác Linh Tác Đại Chứng Minh.

Kính bạch Giác Linh Sư Bà,

Chúng con biết ghi lại một vài dòng thô thiển về cuộc đời tu học và hành đạo của Sư Bà là điều trái với tâm nguyện của Sư Bà; vì Sư Bà thường dạy chúng con: Người tu là tập làm con nhạn bay giữa hư không, không lưu lại bất cứ vết tích nào; hay như con hạc rời khỏi ao hoang, không hề lưu luyến. Nhưng kể từ đây Pháp Âm của Sư Bà không còn trực tiếp rót vào tai của chúng con nữa; hình ảnh thân giáo của Sư Bà chúng con không còn diễm phúc nhìn tận mắt; thì, những dòng tiểu sử đơn sơ này sẽ giúp nhắc nhở chúng con noi theo hạnh nghiệp của Sư Bà trên đường tu học của chúng con. Biết thương yêu nhau như ruột thịt; biết nhìn, biết hiểu và tha thứ cho nhau những lỗi lầm, nếu có; biết quây quần, gắn bó bên nhau để sách tấn tu tập; biết chia sẽ với nhau những khó khăn; và nguyện với nhau rằng dù có gặp nghịch cảnh nào đi nữa, thì vẫn cố tập theo hạnh từ bi, hỷ xả và nhẩn nhục của Sư Bà để xứng đáng là kẻ “thừa tự Pháp của Sư Bà và nguyện không làm người chỉ biết thừa tự tài vật của Sư Bà”.

Xin Sư Bà đại xá cho chúng con những điều khiếm khuyết.

Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.

Môn Đồ Pháp Quyến Hiệp Thập, Khể Thủ Kính Ghi

--- o0o ---

Vi tính: Diệu Mỹ; Trình bày: Nhị Tường



****


Hình ảnh sinh hoạt 

Chùa Đức Viên ngày nay


Chua Duc Vien_Mung Xuan Mau Tuat 2018 (66)Chua Duc Vien_Mung Xuan Mau Tuat 2018 (67)
Chua Duc Vien_Mung Xuan Mau Tuat 2018 (50)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/10/2019(Xem: 3810)
Hòa Thượng Thích Huệ Quang (1927 - 2009) - Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam - Chứng minh Ban trị sự Phật giáo tỉnh Khánh Hòa - Huynh Trưởng Môn phong Tổ đình Nghĩa Phương - Viện chủ Chùa Đông Phước, Phước Long, TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa
20/10/2019(Xem: 4748)
Hoà thượng Thượng HOÀN Hạ QUAN, thế danh Phạm Ngọc Thơ. Pháp danh NHƯ CỤ THIỆN. Pháp tự GIẢI TOÀN NĂNG. Pháp hiệu THÍCH HOÀN QUAN. Sinh ngày 16-09-1928 (Năm Mậu Thìn) tại làng Phước Long, nay là thôn Hoà Bình xã Nghĩa Hoà huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Song thân của Ngài là Phạm Công Phạm Khánh Lâm và Cụ bà là Trần Thị Thưởng. Cụ Ông và Cụ bà đã hạ sinh được 6 người con, gồm 2 trai 4 gái, Ngài là người con thứ 5 trong gia đình.
20/10/2019(Xem: 2328)
Hòa thượng thế danh là Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Khánh Anh, Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi nhỏ, Ngài theo học Nho, luôn tỏ ra là một Nho sinh xuất sắc. Năm 21 tuổi (1916) nhận thấy cảnh thế phù du, cuộc đời là vô thường, giả tạm, Ngài quy y thọ giới tại chùa Cảnh Tiên. Năm 22 tuổi (1917) Ngài được nhập chúng tu học ở chùa Quang Lộc trong tỉnh, được ban pháp danh Chơn Húy. Sẵn có căn bản Hán học vững chắc, Ngài thâm nhập kinh tạng rất mau chóng. Ngài lần lượt thọ giới Sa Di và nghiên cứu Kinh, Luật, Luận rồi thọ giới Tỳ Kheo Bồ Tát với pháp hiệu Khánh Anh. Khi tròn 30 tuổi, Ngài trở thành một vị giảng sư Phật học nổi tiếng.
20/10/2019(Xem: 5437)
Hòa thượng thế danh là Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Khánh Anh, Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi nhỏ, Ngài theo học Nho, luôn tỏ ra là một Nho sinh xuất sắc. Năm 21 tuổi (1916) nhận thấy cảnh thế phù du, cuộc đời là vô thường, giả tạm, Ngài quy y thọ giới tại chùa Cảnh Tiên. Năm 22 tuổi (1917) Ngài được nhập chúng tu học ở chùa Quang Lộc trong tỉnh, được ban pháp danh Chơn Húy. Sẵn có căn bản Hán học vững chắc, Ngài thâm nhập kinh tạng rất mau chóng. Ngài lần lượt thọ giới Sa Di và nghiên cứu Kinh, Luật, Luận rồi thọ giới Tỳ Kheo Bồ Tát với pháp hiệu Khánh Anh. Khi tròn 30 tuổi, Ngài trở thành một vị giảng sư Phật học nổi tiếng.
20/10/2019(Xem: 5087)
Cố HT. Bửu Chơn tên thật Phạm Văn Tông, sinh ngày 25/10/1914, tại làng An Hội ‒ Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Ngài là con của cụ ông Phạm Văn Dư và cụ bà Lê Thị Dương. Tuổi thơ, ngài học ở trường làng, trường Tây, nhờ siêng năng, chăm học nên đã đậu bằng Preme. Năm 1930, ngài sang Nam Vang làm công chức trong cơ quan Việt Nha địa chính.
20/10/2019(Xem: 4412)
Hòa thượng Phước Hậu, pháp húy Trừng Thịnh, pháp tự Như Trung, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 42. Ngài thế danh Lê Văn Gia, sinh năm Bính Dần(1866), nhằm Tự Đức thứ 15, tại xã An Tiêm, huyện Đồng Quan, tỉnh Thái Bình.
20/10/2019(Xem: 5621)
Hòa thượng Pháp húy Ngộ Trí, đạo hiệu Thích Huệ Hưng, thế danh Nguyễn Thành Chẩm, thuộc dòng Thiền Lâm Tế đời thứ 39, là đệ tử Sư tổ Vạn An (Sa Đéc). Ngài sinh năm Đinh Tỵ (1917) tại làng Mỹ Thọ, quận Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ là cụ Nguyễn Minh Biện, pháp danh Minh Chiếu, thân mẫu là cụ Trần Thị Mậu, pháp danh Diệu Thiệt. Năm 62 tuổi, cụ bà xuất gia thọ giới Sa di ni.
20/10/2019(Xem: 4172)
Quốc sư tên thật là Nguyễn Tấn Giao, sinh năm Kỷ Tỵ (1869) tại làng Phú Thành, phủ An Nhơn, nay là ấp Phú Thành, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ Nguyễn Chánh Niệm, tự Hòa Bình, thân mẫu là cụ Nguyễn Thị Lãnh, ông bà đều là những Phật tửthuần thành. Năm 12 tuổi (1881), Ngài được cha mẹ cho phép xuất giatại chùa Thập Tháp, thọ giới với Hòa thượng Chí Tịnh (Minh Lý) được ban pháp hiệu là Phước Huệ. Một thời gian sau, Ngài được Bổn sư cho tới chùa Tịnh Lâm ở huyện Phù Cát, Bình Định theo học với Hòa thượng chùa Châu Long là Ngài Từ Mẫn. Năm 19 tuổi, Ngài trở về giữ chức Thủ khố của Tổ đình Thập Tháp. Năm 20 tuổi Ngài vào chùa Từ Quang ở Đá Trắng huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên theo học với Hòa thượng Luật Truyền (Pháp Chuyên). Ngài thọ đại giới năm 1889 và đắc pháp năm 1892 với Hòa thượng Luật Truyền.
20/10/2019(Xem: 4471)
Hòa Thượng Thích Mật Thể (1912 - 1961) Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
26/09/2019(Xem: 23048)
Ẩn mình trong dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ là xứ sở Bhutan, một quốc gia nhỏ bé nằm phía sau dãy Hy Mã Lạp Sơn, giống như Tây Tạng, một địa chỉ tâm linh huyền bí và khép kín với thế giới bên ngoài. Đặc biệt đây là một đất nước lấy chỉ số thu nhập GDP không phải là tiền bạc mà là hạnh phúc của con người. Tu Viện Quảng Đức sẽ tổ chức chuyến hành hương thăm viếng Bhutan và Tích Lan từ ngày 26/9 đến 12/10/2019, lệ phí trọn gói: $6,500, số khách giới hạn, xin quý Phật tử hoan hỷ đăng ký sớm. Hạn chót đăng ký và đóng tiền đầy đủ: 25/7/2019. Chuyến đi do Thượng Tọa Trụ Trì Thích Nguyên Tạng làm trưởng đoàn cùng với Đạo Hữu Tony Thạch (giám đốc công ty Triumph Tour) làm trợ lý cho Thầy để lo các công việc cần thiết. Xin quý Phật tử xa gần liên lạc về Tu Viện Quảng Đức (03.9357 3544 hoặc email:[email protected]) để ghi danh tham dự chuyến hành hương chiêm bái này. Chi tiết, xin quý Phật tử thường xuyên vào xem tại trang nhà: www.quangduc.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]