Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tổ Sư Minh Đăng Quang, chiếc bóng bên trời trăng khuyết

26/02/201410:01(Xem: 13961)
Tổ Sư Minh Đăng Quang, chiếc bóng bên trời trăng khuyết

To su minh dang quang

Bài tham luận Hội Thảo “Hệ phái Khất sĩ: Quá trình hình thành, phát triển và hội nhập”

TỔ SƯ MINH ĐĂNG QUANG

CHIẾC BÓNG BÊN TRỜI TRĂNG KHUYẾT



Tổ sư Minh Đăng Quang sinh ra (năm Quý Hợi 1923) và lớn lên trong giai đoạn đất nước nói chung và Nam Kỳ Lục Tỉnh nói riêng, công cuộc chiếm cứ, thực hiện kế sách bảo hộ lâu dài của thực dân Pháp đã đi vào thế ổn định, và đang tự tin cho bước phát triển tiếp theo tưởng chừng mạnh mẽ ấy. Bởi lẽ trước đó hai năm ( năm Canh Thân 1920) quan toàn quyền Maurice Long đã thành lập Hội Đồng Thuộc Địa Nam Kỳ, còn được gọi là Hội Đồng Quản Hạt (Conseil Colonial) mà cũng là nơi tranh nhau quyền lợi giữa các nhóm làm ăn người Hoa, người Pháp cũng như các ông tư sản của chính vùng đất Nam Kỳ. Thật ra, trên bình diện chung, thời điểm này được xem là giai đoạn chuẩn bị tuột dốc, để không lâu sau đó, cao trào tự chủ, độc lập dân tộc khắp nơi trên thế giới đã thổi làn gió tích cực đến nhiều giới sĩ phu, nông dân yêu nước Việt nam mạnh mẽ và rất quyết liệt, làm lung lay chế độ thực dân mà Pháp đã dày công củng cố nhiều mặt và nuôi giấc mộng chiếm ngự lâu dài.

Đọc lại những trang sử ố vàng theo thời gian trong giai đoạn này, chúng ta không khó khăn lắm bắt gặp hình ảnh Phật giáo nằm khép sâu trong mớ tro bụi ấy rất cũ kỹ, rất cổ xưa và nói chính xác hơn không có sự sống. Phải đợi gần mười năm sau đó nữa, chư Tôn Đức tài ba mới dấy động thành công phong trào chấn hưng Phật giáo khắp ba kỳ rực rỡ. Điều rất dễ nhận ra lý do tại sao là: khi đất nước nguy vong, đạo pháp cũng không an ổn, có những Tăng Ni Phật tử, phải “cởi áo cà sa khoát chiến bào” lên đường cùng đoàn quân chống ngoại xâm. Và tất nhiên chúng ta không thể quên còn có lý do to lớn nhất: thực dân Pháp đã thành công trong việc đẩy lùi Phật giáo vào chốn thâm sâu cô tịch, biến giới Tăng sĩ thành những ông Thầy chùa làng ít học và Phật tử có chăng chỉ là thành phần có việc ma chay phải tống táng, mới đến chùa cúng bái. Những dòng chữ lịch sử u buồn này được nhà viết sử Vân Thanh mô tả như sau “Phật giáo thời bấy giờ cùng chung số phận ấy, mất chủ quyền dân tộc, giáo quyền đạo Phật bị chà đạp trắng trợn hơn bao giờ hết (các Sư phải nộp thuế thân, phải đi lính cho thực dân Pháp, chẳng được tự do truyền đạo như bên Thiên Chúa v.v...)Tình trạng khốn đốn của Phật giáo trong buổi này chẳng khác nào đóng cửa để chờ chết vì chẳng còn hệ thống(đoàn thể) tổ chức như trước kia, nguyên do thực dân Pháp cố tình cắt đứt sự tổ hợp của Phật giáo buổi này, chúng sợ dân ta trá hình là Phật giáo để rồi chống đối chúng, nên mọi hình thức của Phật giáo bị làm tê liệt cả.Trong tăng giới thời này chẳng biết làm gì hơn trước sự dòm ngó theo dõi của thực dân, nên sự sống hết sức rời rạc vô tổ chức”(trích trang 189-190, LKPGS, giấy phép số 929/72/PTUVK SALP/TP 27.6.1974 ). Đó cũng được coi là hình ảnh tiêu biểu nhất thời mất nước của Phật giáo trong mọi thời kỳ.


Đời gặp thuở can qua chinh chiến
Sống những ngày nguy biến kinh tâm
Kéo dài thê thảm nhiều năm
Đầy trời sát khí cõi âm hiện hình!
Kẻ thác đi hồn linh tức tưởi
Người sống còn rũ rượi sầu thương
Kể đâu hết khúc đoạn trường
Bàn tay ác liệt vô thường gây nên?

(Trích Kinh Nguyện Hòa Bình VII)


Chiến tranh, loạn lạc, đói kém là một trong những động tố xô đẩy tinh thần con người ta ngả nghiêng lắm bận, nhưng cũng như tâm tư ông Tộc Đầu Sư (đạo Cao Đài) Nguyễn Văn Ngợi (1900-1988) ở miệt Tam Bình,Vĩnh Long, cùng quê hương chào đời của Tổ Sư Minh Đăng Quang; Tăng Ni Phật tử thời bấy giờ cũng cùng chung tâm nguyện thiết tha:

Chẳng bỏ lời thế nơi Phật cảnh
Không quên tiếng nguyện chốn non xanh.

Có thể nói, ở Lục Tỉnh Nam Kỳ thời bấy giờ, ngoại trừ các tín ngưỡng mang tính chất thuần túy tôn giáo, còn lại không ít các tổ chức chính trị của nhiều xu hướng, thành phần khác nhau, đua nhau ra đời nhưng trước tiên đều trang bị vỏ bọc hình thái một tín ngưỡng; đặc biệt càng huyền bí càng dễ thu phục quần chúng, vì rất phù hợp với đa số người bình dân và bộ phận sống trong sự u uất, bế tắc trước nạn đao binh do thực dân Pháp gây ra; từ đó, dần dà biến thành lực lượng hậu thuẩn cho quan điểm đấu tranh của mình.

Với Phật giáo, tinh thần nhập thế rất rõ ràng, nếu không thể chuyên tâm tu hành thì dũng cảm lên đường gia nhập hàng ngũ chống giặc, không hề phạm phải một giới luật chi. Vì thế trong chiều dài lịch sử hòa mình cùng dân tộc, Phật giáo vẫn đứng trụ vững ở một nơi cao nhất trong lòng dân tộc, chưa hề có một tỳ vết hoen ố trong tinh thần chống ngoại xâm.

Những Bửu Sơn Kỳ Hương ( Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên (1807- 1856); Tứ Ân Hiếu Nghĩa ( Bổn sư Ngô Lợi (?-1880). Trong giới Cư sĩ thì có các tổ chức như Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội ( Cư sĩ Nguyễn Văn Bồng (1886-1958); Ngũ Minh Chi Đạo (Đạo Minh Sư do các Cư sĩ Minh Sư, Minh Lý, Minh Đường, Minh Thiện, Minh Tấn) v.v… Đó là những chứng minh tinh thần Phật giáo biết phân thân đi vào từng ngỏ vắng trần đời để trụ vững và tồn tại.

Còn có Phật giáo Hòa Hảo là một tôn giáo chính đáng dựa vào nền tảng Phật Đà nhưng có một lối tư duy độc lập, rẽ hướng song hành cùng các tông phái, tổ chức Phật giáo thời bấy giờ trên con đường phát triển và hóa đạo. Và Phật giáo Hòa Hảo từ nền tảng khế lý, khế cơ của mình đã tỏ ra rất phù hợp với đa số cư dân Nam Kỳ Lục Tỉnh, gặt hái được những thành tựu đáng kể.


Khi đức Huỳnh Phú Sổ khai sáng nền đạo Phật giáo Hòa Hảo, (năm Kỷ Mão 1939), thì Tổ Sư Minh Đăng Quang trong độ tuổi trăng tròn và đang nuôi chí xuất trần nơi xứ Cao Miên (Campuchia).

Thiếu niên ngày nọ lìa nhà
Vượt biên giới Việt-Miên xa dặm ngàn.
“Lên non tìm động hoa vàng…”
Tầm sư học đạo chốn Nam Vang thành…
(Trích Thi Hóa-nhà thơ Trụ Vũ)


Như vậy, những Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật Giáo Hòa Hảo phần nào cũng có ý nghĩa tác động ban đầu trong ý chí tầm đạo của Tổ Sư Minh Đăng Quang, để sau này, khi hình thành nên mối đạo, trở nên một tông phái Phật giáo bản xứ, Phật giáo Khất Sĩ đã vận dụng thành công tư tưởng Phật Đà trong các nguồn Kinh Luật Luận của cả Bắc và Nam Tông, tạo nên sắc thái riêng biệt mà không xa rời ngôi nhà chung Phật học với phương châm: NỐI TRUYỀN THÍCH CA CHÁNH PHÁP.

Từ Bi là gốc Như Lai
Cảm thương thân phận những ai đọa đày
(Trích Thi Hóa đã dẫn)

Nếu như chúng ta trân trọng, thán phục khai sáng của đức Huỳnh Phú Sổ, đã chắt lọc khôn khéo tư tưởng Phật học, hình thành nên lối hành đạo và hóa đạo độc lập, mang một luồng gió mới đến với mọi người bao nhiêu thì càng thêm kính phục bấy nhiêu quá trình tu học và thành lập hệ phái Khất Sĩ của Tổ Sư Minh Đăng Quang. Sự hình thành và tồn tại, luôn phát triển của hệ phái Phật giáo đặc biệt này, đã nói lên được giá trị đích thực cũng như kết quả đúng theo tâm nguyện khi xưa kia Tổ Sư Minh Đăng Quang đã mở đường khai lối.

Phật giáo Khất Sĩ được khai sinh trong bối cảnh đất nước đang hồi nghiêng ngửa như thế, cho nên Tổ Sư Minh Đăng Quang luôn thao thức về sự bình đẳng trong tha nhơn, sự bình an trong cuộc sống của dân tộc mình, từ đó mới có thể nghỉ đến bước phát triển tiếp theo. Vì vậy, trong bộ Chơn Lý, phần gần cuối chúng ta sẽ bắt gặp hệ tư tưởng Hòa Bình bằng sáu phần khúc giải rất thâm sâu. Như đọạn đầu trích dẫn bài kinh Nguyện Hòa Bình VII trên. Ở đó nói lên khái niệm Hòa Bình trong phạm trù nghịch chiến tranh, tác nhân của phần lớn khổ đau mang tính chất cộng nghiệp của một dân tộc, một địa phương hay một nhóm xã hội. Những phần kế tiếp là Hòa Bình trong từng công hạnh tu tập mỗi thành tố Khất Sĩ, trong giao tiếp với tha nhân. Trong đó đặc biệt còn nêu cao vai trò gắn kết giữa gia đình và xã hội chung quanh.

Cõi bình đẳng về sắc thân không ai hơn kém, chỉ dùng đức hạnh làm cây thước, để đo trình độ thấp cao. Trong đạo cả thảy sự sống như nhau, một tiếng Khất Sĩ như nhau. Cõi không hình phạt, không quyền, không trị, chỉ có một sự dạy, mà tất cả được yên.

Giữa cõi đời chết khổ, Khất Sĩ là chất nhựa sống, gắn liền các khối chia rẽ riêng tư. Khất sĩ là con đàng chơn lý võ trụ, đúng theo trung đạo ánh sáng, không thiên về một bên lề mé, Khất sĩ tượng trưng giáo lý đại đồng.

Cái sống là đang sống chung,
Cái chết là đang học chung
Cái linh là đang tu chung.
(Trích Hòa Bình-Đoàn Du Tăng-Bình Đẳng Vô Trị)

Dựa vào tiêu chí chư Tổ Sư từ ngàn xưa, trong tinh thần:

Nhất bán thiên gia phạn
Cô thân vạn lý du
Dục cùng sanh tử lộ
Khất hóa độ xuân thu.

Phật giáo Khất Sĩ cũng tuân thủ bốn tiêu chí chặt chẽ, rất đáng kính trọng, nhưng cũng rất cởi mở:

- Người tu khất thực chỉ ăn đồ xin mà thôi, nhưng ngày hội, thuyết pháp giới bổn thì được ăn ở chùa.
- Người tu khất thực chỉ lượm những vải bỏ mà khâu lại thành áo, nhưng có ai cúng vải, đồ cũ thì được nhận.
- Nguời tu khất thực chỉ nghỉ dưới cội cây, nhưng có ai cúng lều, am nhỏ bằng lá một cửa thì được ở.
- Người tu khất thực chỉ dùng phân uế của bò mà làm thuốc trong khi đau, nhưng có cúng thuốc đường dầu thì được dùng.

Với tư tưởng, chủ trương đứng đắn, Phật giáo Khất Sĩ đã nhanh chóng được nhiều tầng lớp tiếp nhận, chung tay vun bồi nền đạo, Sau ba năm khai sáng, Tổ Sư Minh Đăng Quang mới tiếp nhận người đệ tử đầu tiên là sư Từ Huệ, và một năm sau đó( năm Mậu Tý-1948), Phật giáo Khất Sĩ đã có mặt và phát triển tại Sài gòn.

Sài gòn hoa lệ từ xưa
Trăng phơi cánh mộng, gió đưa điệu đàng
Một ngày kia, dưới nắng vàng
Bỗng trang nghiêm hiện một đoàn du Tăng
Dân thành thị những băn khoăn:
Họ là ai? Xin thưa rằng: Họ đây
Là môn đệ của Đức Thầy
Minh Đăng Quang- chiếu tự rày mười phương…

(Trích Thi Hóa của nhà thơ Trụ Vũ)

Từ đây Phật Giáo Khất Sĩ đã hòa mình vào vận mệnh chung của Đạo Pháp, làm sáng đẹp thêm ngôi nhà chung Phật Giáo Việt Nam.

THAY LỜI KẾT

Cho đến tận hôm nay. Tròn sáu mươi năm. Kể từ buổi chiều ngày 30 tháng Giêng năm Giáp Ngọ (1954), tại Tịnh xá Ngọc Quang (Sa Đéc), dưới tán cây bã đậu, Tổ Sư Minh Đăng Quang nói lời từ tạ chúng đệ tử để vào “núi lửa” tĩnh tu; ngày Vị Tôn Sư khả kính của Phật giáo Khất Sĩ nói riêng và vị danh Tăng của Phật giáo Việt nam nói chung, đã hoàn toàn vắng bóng tôn nhan, để lại con lộ hóa đạo thênh thang cùng với sự phát triển hanh thông theo ước nguyện của người mà chúng đệ tử luôn hãnh diện và luôn đau đáu dõi trông hướng trời vô định, vẫn đinh ninh một ngày nào đó vị Tổ Sư sẽ về lại với mình. Để vầng trăng thanh được tròn vạnh giữa đêm rằm dân tộc, ấm cúng bao mối đạo tình mà ngày xưa lao nhọc xả thân tìm cầu mới có được; và cũng để những dòng sử liệu sau cùng về tiểu sử đời Ngài lẫn Đạo Phật Khất Sĩ không còn phải dùng đến cụm từ: NGÀY ĐỨC TÔN SƯ VẮNG BÓNG. Ngày đó, cùng với cụm từ này, tuy được cho là “Kỷ Niệm” nhưng thật sự đó chính là ngày giỗ kỵ tạm ước mà chúng đệ tử phải đành lòng ngậm ngùi tưởng nhớ.


Năm Giáp Ngọ
Đầu tháng hai,
Vĩnh Long hoa nở đón người vân du
Khi qua thuyền tới Cần Thơ
Bỗng đâu nhận được “lệnh” từ cấp trên
Một xe vào cõi “U huyền”,
Ai hay địa ngục giữa miền dương gian
Tuồng đời hợp hợp tan tan
Ngắm tranh vân cẩu đôi hàng lệ sa
Đêm xuân tủi bóng trăng tà
Đêm thu tủi ngọn đèn hoa vơi dầu.
Bây giờ Phượng ở nơi đâu?
Bóng chim tăm cá biển sâu sông dài
Đã đành thường trụ Như Lai
Đã đành pháp tánh ở ngoài sắc không
Đã đành gương chiếu hoa lồng
Đã đành đành vậy, mà lòng…vẫn đau….

(Trích Thi Hóa của nhà thơ trụ Vũ)



DƯƠNG KINH THÀNH
Trung Tâm Nghiên cứu Phật Giáo Việt nam
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam




Hoi_Thao_to_su_Minh_Dang_Quang


Hoi_Thao_to_su_Minh_Dang_Quang_DKTCư Sĩ Dương Kinh Thành



----------------------
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/10/2019(Xem: 3807)
Hòa Thượng Thích Huệ Quang (1927 - 2009) - Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam - Chứng minh Ban trị sự Phật giáo tỉnh Khánh Hòa - Huynh Trưởng Môn phong Tổ đình Nghĩa Phương - Viện chủ Chùa Đông Phước, Phước Long, TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa
20/10/2019(Xem: 4740)
Hoà thượng Thượng HOÀN Hạ QUAN, thế danh Phạm Ngọc Thơ. Pháp danh NHƯ CỤ THIỆN. Pháp tự GIẢI TOÀN NĂNG. Pháp hiệu THÍCH HOÀN QUAN. Sinh ngày 16-09-1928 (Năm Mậu Thìn) tại làng Phước Long, nay là thôn Hoà Bình xã Nghĩa Hoà huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Song thân của Ngài là Phạm Công Phạm Khánh Lâm và Cụ bà là Trần Thị Thưởng. Cụ Ông và Cụ bà đã hạ sinh được 6 người con, gồm 2 trai 4 gái, Ngài là người con thứ 5 trong gia đình.
20/10/2019(Xem: 2325)
Hòa thượng thế danh là Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Khánh Anh, Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi nhỏ, Ngài theo học Nho, luôn tỏ ra là một Nho sinh xuất sắc. Năm 21 tuổi (1916) nhận thấy cảnh thế phù du, cuộc đời là vô thường, giả tạm, Ngài quy y thọ giới tại chùa Cảnh Tiên. Năm 22 tuổi (1917) Ngài được nhập chúng tu học ở chùa Quang Lộc trong tỉnh, được ban pháp danh Chơn Húy. Sẵn có căn bản Hán học vững chắc, Ngài thâm nhập kinh tạng rất mau chóng. Ngài lần lượt thọ giới Sa Di và nghiên cứu Kinh, Luật, Luận rồi thọ giới Tỳ Kheo Bồ Tát với pháp hiệu Khánh Anh. Khi tròn 30 tuổi, Ngài trở thành một vị giảng sư Phật học nổi tiếng.
20/10/2019(Xem: 5434)
Hòa thượng thế danh là Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Khánh Anh, Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi nhỏ, Ngài theo học Nho, luôn tỏ ra là một Nho sinh xuất sắc. Năm 21 tuổi (1916) nhận thấy cảnh thế phù du, cuộc đời là vô thường, giả tạm, Ngài quy y thọ giới tại chùa Cảnh Tiên. Năm 22 tuổi (1917) Ngài được nhập chúng tu học ở chùa Quang Lộc trong tỉnh, được ban pháp danh Chơn Húy. Sẵn có căn bản Hán học vững chắc, Ngài thâm nhập kinh tạng rất mau chóng. Ngài lần lượt thọ giới Sa Di và nghiên cứu Kinh, Luật, Luận rồi thọ giới Tỳ Kheo Bồ Tát với pháp hiệu Khánh Anh. Khi tròn 30 tuổi, Ngài trở thành một vị giảng sư Phật học nổi tiếng.
20/10/2019(Xem: 5083)
Cố HT. Bửu Chơn tên thật Phạm Văn Tông, sinh ngày 25/10/1914, tại làng An Hội ‒ Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Ngài là con của cụ ông Phạm Văn Dư và cụ bà Lê Thị Dương. Tuổi thơ, ngài học ở trường làng, trường Tây, nhờ siêng năng, chăm học nên đã đậu bằng Preme. Năm 1930, ngài sang Nam Vang làm công chức trong cơ quan Việt Nha địa chính.
20/10/2019(Xem: 4407)
Hòa thượng Phước Hậu, pháp húy Trừng Thịnh, pháp tự Như Trung, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 42. Ngài thế danh Lê Văn Gia, sinh năm Bính Dần(1866), nhằm Tự Đức thứ 15, tại xã An Tiêm, huyện Đồng Quan, tỉnh Thái Bình.
20/10/2019(Xem: 5618)
Hòa thượng Pháp húy Ngộ Trí, đạo hiệu Thích Huệ Hưng, thế danh Nguyễn Thành Chẩm, thuộc dòng Thiền Lâm Tế đời thứ 39, là đệ tử Sư tổ Vạn An (Sa Đéc). Ngài sinh năm Đinh Tỵ (1917) tại làng Mỹ Thọ, quận Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ là cụ Nguyễn Minh Biện, pháp danh Minh Chiếu, thân mẫu là cụ Trần Thị Mậu, pháp danh Diệu Thiệt. Năm 62 tuổi, cụ bà xuất gia thọ giới Sa di ni.
20/10/2019(Xem: 4170)
Quốc sư tên thật là Nguyễn Tấn Giao, sinh năm Kỷ Tỵ (1869) tại làng Phú Thành, phủ An Nhơn, nay là ấp Phú Thành, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ Nguyễn Chánh Niệm, tự Hòa Bình, thân mẫu là cụ Nguyễn Thị Lãnh, ông bà đều là những Phật tửthuần thành. Năm 12 tuổi (1881), Ngài được cha mẹ cho phép xuất giatại chùa Thập Tháp, thọ giới với Hòa thượng Chí Tịnh (Minh Lý) được ban pháp hiệu là Phước Huệ. Một thời gian sau, Ngài được Bổn sư cho tới chùa Tịnh Lâm ở huyện Phù Cát, Bình Định theo học với Hòa thượng chùa Châu Long là Ngài Từ Mẫn. Năm 19 tuổi, Ngài trở về giữ chức Thủ khố của Tổ đình Thập Tháp. Năm 20 tuổi Ngài vào chùa Từ Quang ở Đá Trắng huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên theo học với Hòa thượng Luật Truyền (Pháp Chuyên). Ngài thọ đại giới năm 1889 và đắc pháp năm 1892 với Hòa thượng Luật Truyền.
20/10/2019(Xem: 4470)
Hòa Thượng Thích Mật Thể (1912 - 1961) Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
26/09/2019(Xem: 23040)
Ẩn mình trong dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ là xứ sở Bhutan, một quốc gia nhỏ bé nằm phía sau dãy Hy Mã Lạp Sơn, giống như Tây Tạng, một địa chỉ tâm linh huyền bí và khép kín với thế giới bên ngoài. Đặc biệt đây là một đất nước lấy chỉ số thu nhập GDP không phải là tiền bạc mà là hạnh phúc của con người. Tu Viện Quảng Đức sẽ tổ chức chuyến hành hương thăm viếng Bhutan và Tích Lan từ ngày 26/9 đến 12/10/2019, lệ phí trọn gói: $6,500, số khách giới hạn, xin quý Phật tử hoan hỷ đăng ký sớm. Hạn chót đăng ký và đóng tiền đầy đủ: 25/7/2019. Chuyến đi do Thượng Tọa Trụ Trì Thích Nguyên Tạng làm trưởng đoàn cùng với Đạo Hữu Tony Thạch (giám đốc công ty Triumph Tour) làm trợ lý cho Thầy để lo các công việc cần thiết. Xin quý Phật tử xa gần liên lạc về Tu Viện Quảng Đức (03.9357 3544 hoặc email:[email protected]) để ghi danh tham dự chuyến hành hương chiêm bái này. Chi tiết, xin quý Phật tử thường xuyên vào xem tại trang nhà: www.quangduc.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]