Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một Chút Gì Khó Quên (Thục Đức)

10/11/201319:16(Xem: 28763)
Một Chút Gì Khó Quên (Thục Đức)

Canh_Tu_Vien_Quang_Duc (18)

Một Chút Gì Khó Quên!

Thời gian thắm thoát đã gần 12 năm, vợ chồng tôi đã đặt chân đến xứ Úc Kangaroo này. Biết bao nhiêu kỷ niệm vui buồn xảy ra trong thời gian qua.

Lần đầu tiên tới Úc vợ chồng tôi thật bỡ ngỡ, lo âu, hồi hộp và sợ sệt. Với một đất nước to lớn và đông dân cư so với New Zealand nhỏ bé và thưa thớt cư dân. Vợ chồng tôi cảm thấy mình giống như một hạt cát giữa sa mạc. Cũng may do nhân duyên vợ chồng tôi quen biết được Thầy Tâm Phương tại New Zealand qua buổi Lễ Khánh Thành chùa Giác Nhiên, cho nên vợ chồng tôi đã nhờ một người bạn đưa đến Tu Viện Quảng Đức để viếng thăm Thầy, nhưng vợ chồng tôi lại không biết địa chỉ và người bạn vợ chồng tôi cũng không biết TVQĐ ở nơi mô? Vợ chồng tôi đã diễn tả ngôi chùa đó là một trường tiểu học, thế là người bạn đã chở vợ chồng tôi đến một ngôi chùa cũng là trường tiểu học, nhưng không phải TVQĐ mà là Chùa Linh Sơn. Từ Chùa Linh Sơn chúng tôi tìm ra được TVQĐ. Khi tới nơi Thầy trò gặp nhau rất vui mừng, sau một lúc hàn huyên tâm sự, vợ chồng tôi cho Thầy biết vợ chồng tôi có ý định sống tại Úc này.

Thầy dẫn chúng tôi tham quan cảnh xung quanh Tu Viện. Lúc đó những dãy phòng học vẫn còn nguyên vẹn, Thầy hướng dẫn chúng tôi vào một sảnh đường với một gian phòng rộng lớn chứa độ 100 người, xung quanh được dựng bằng tôn và trên nóc nhà cũng lợp bằng tôn, đó là chánh điện tạm thời để Phật tử cũng như Thầy có nơi để Lễ bái, tu học v.v… Sau khi Lễ Phật xong Thầy hướng dẫn chúng tôi đi dạo bên ngoài. Ngoài sân chùa có rất nhiều cây cổ thụ to lớn, mặc dù trời đang độ nắng gắt nhưng nhờ những bóng cây đã làm dịu mát đi phần nào. Chùa lúc đó rất đơn sơ ngoại trừ cổng Tam Quan hùng vĩ đứng hiên ngang giữa một góc trời, ngoài ra còn có cảnh vườn Lộc Uyển nơi Hoàng Hậu Ma Gia sanh Thái Tử Tất Đạt Đa rất dễ thương. Trời cũng đã xế trưa, Thầy mời chúng tôi ở lại dùng cơm. Tại nhà bếp vợ chồng tôi thấy có thêm một Thầy, một Sư Cô và hai chú điệu. Thầy Trụ Trì giới thiệu bào đệ của Thầy là Thầy Nguyên Tạng, Sư Cô Hạnh Nguyên và hai chú Nguyên Chí và Quảng Trí đang tập sự xuất gia.

Vài ngày sau,Thầy đã làm vợ chồng tôi giựt mình khi bước chân vào nhà thấy Thầy đã đến thăm vợ chồng tôi tự lúc nào, có cả Hòa Thượng Huyền Tôn làm vợ chồng tôi xúc động vô cùng, đáng lẽ ra vợ chồng tôi phải đến đảnh lễ Hòa Thượng trước, đằng này vợ chồng tôi chưa kịp viếng thăm HT vì không có phương tiện và bạn vợ chồng tôi bận nên vợ chồng tôi tính chờ đến cuối tuần rồi sẽ đến thăm sau. Vợ chồng tôi thật sự vui mừng không có ngôn từ nào diễn tả được, hai Thầy đã làm vợ chồng tôi bối rối, vì chỗ vợ chồng tôi ở là một căn flat nhỏ nằm tận lầu hai chỉ có 2 phòng ngủ mà tới 5 người ở lận. Có lẽ Thầy nhìn thấy được điểm đó nên Thầy đã mở lời nói là chúng tôi có thể lên chùa ở tạm, lúc đó vợ chồng tôi không bỏ qua cơ hội này nên đã nói ok liền. Ngày hôm sau, vợ chồng tôi dọn lên chùa ở, vợ chồng tôi cũng hơi dè dặt và e ngại một chút, nhưng hai Thầy và Sư Cô rất cởi mở và nhiệt tình cho nên vợ chồng tôi cảm thấy thoải mái và tự nhiên hơn. Mấy ngày đầu tiên vợ chồng tôi chưa quen cảnh sống của Thiền Môn vì 4 giờ sáng là Thầy Tâm Phương đã thức dậy gióng chuông, 5g30 Thầy Nguyên Tạng, Sư Cô Hạnh Nguyên cùng hai chú tụng Kinh Lăng Nghiêm, thật tình lúc đó vợ chồng tôi mệt mỏi vô cùng vì tuổi còn trẻ, cái tuổi ham ăn, ham ngủ như vợ chồng tôi mà thức dậy sớm là một cực hình đối với vợ chồng tôi, nhưng lần lần vợ chồng tôi cũng quen dần không ngủ nướng nữa. Lần đầu tiên vợ chồng tôi tụng Kinh Lăng Nghiêm nửa mê, nửa tỉnh vợ chồng tôi không tài nào theo kịp, vợ chồng tôi đã dùng ngón tay cố gắng dò theo từng chữ nhưng cũng không thể nào bắt kịp được. Vợ chồng tôi complaint với Thầy, “Sao Thầy tụng nhanh quá làm sao con theo kịp?”, Thầy mỉm cười và nói: “Con cố gắng học đi rồi từ từ sẽ quen và đọc được thôi”.Vợ chồng tôi cố gắng học nhưng có mấy câu thôi mà vợ chồng tôi cứ quên trước quên sau cho nên vợ chồng tôi bỏ cuộc và để tùy duyên. Sau khi tụng thời Lăng Nghiêm xong Thầy trò chúng tôi làm vệ sinh xung quanh chùa, người thì làm hương đăng, người thì quét rác, tưới cây v.v….

Thầy Nguyên Tạng đang trong mùa school holidays cho nên mỗi ngày vào lúc 2giờ Thầy dạy cho hai chú tập sự xuất gia về giáo lý và nghi lễ. Mỗi tối vào lúc 6 giờ là thời công phu chiều, Thầy hướng dẫn chúng tôi cùng khoảng trên dưới 10 Phật tử tụng kinh bái sám mỗi ngày, khi thì tụng Kinh Pháp Hoa, khi thì Lương Hoàng Sám v.v…Chúng tôi lúc đó rất tinh tấn và siêng năng, thậm chí có đôi lúc Thầy bận việc chúng tôi vẫn duy trì buổi công phu chiều, tự chia ra người làm chủ lễ, người gõ mõ, người đánh chuông. Thường thường sau buổi Lễ xong chúng tôi thường tham khảo, đàm đạo và chia sẻ khuyến tấn lẫn nhau. Hầu hết tất cả chúng tôi đều mang tâm niệm nếu đủ duyên và cơ hội đến là chúng tôi sẽ “khăn gói lên đường tầm sư học đạo”.

Sau một thời gian sinh hoạt trong chùa, tình Thầy trò, huynh đệ gắn bó và sát cánh bên nhau cho nên chúng tôi đặt “danh hiệu” cho hai Thầy để dễ phân biệt trong tiếng gọi thân thương là Thầy Lớn và Thầy Nhỏ. Có một lần Thầy Lớn đã nói với chúng tôi rằng:

“Nhất niên Phật hiện tiền; Nhị niên Phật ngoài hiên; Tam niên Phật thăng thiên.”

Thầy hy vọng chúng tôi sẽ không như vậy mà luôn giữ mãi tâm Phật như thuở ban đầu và khuyến tấn chúng tôi cố gắng tu hành ngày càng tinh tấn hơn.

Thấm thoát đã hai tháng trôi qua từ khi vợ chồng tôi ở trong chùa, chỉ còn vài ngày nữa là Tết Nguyên Đán và đây cũng là cái Tết đầu tiên ở Úc mà vợ chồng tôi được hưởng với bầu không khí tuy không náo nhiệt như ở Việt Nam nhưng cũng đủ làm ấm lòng, đỡ nhớ quê nhà của người con Phật sống tha phương nơi xứ lạ quê người. Thầy Lớn đã chuẩn bị trồng bông Vạn Thọ từ mấy tháng trước, rất tội nghiệp cho Thầy vì lúc đó tài chính còn eo hẹp, chùa rất nghèo cho nên Thầy cùng vài anh Phật tử phải lặn lội vào Farm xin phân bò, phân ngựa…rất hôi và dơ bẩn để về bón cho cây Vạn Thọ được tốt hơn, chứ tiền đâu để mua phân hóa học mà bón cho cả 100 chậu chứ? Mặc dù công việc bận rộn trong mấy ngày cận Tết, nhưng nhìn gương mặt ai ai cũng vui vẻ hăng say làm việc mà quên đi sự mỏi mệt. Riêng về phần các anh chị em huynh trưởng gia đình Phật tử Quảng Đức và các Cô Giáo Bồ Đề Việt ngữ thì lo phần dạy múa, ca, kịch, múa lân, làm nhiều trò chơi để các em có thể vui chơi trong dịp đón giao thừa v.v…

Mỗi năm đến rằm tháng Giêng, TVQĐ thường tổ chức hành hương thập tự, năm đó cũng là năm đầu tiên vợ chồng tôi tham gia chuyến hành hương này. Lúc đó TVQĐ chỉ có 3 chiếc xe Bus khởi hành thôi chứ không phải như năm nay tới 8 chiếc xe Bus lận. Tối hôm đó vợ chồng tôi không sao chợp mắt được có lẽ vì nôn nóng trời mau sáng để đi. Vì không ngủ được tôi thức dậy và tản bộ ra ngoài. Bỗng nhiên vợ chồng tôi ngửi được mùi tương kho rất thơm và nghe tiếng động nhỏ dưới bếp, nhìn đồng hồ vợ chồng tôi thấy mới có 4 giờ thôi, vợ chồng tôi ngạc nhiên giờ này ai xuống bếp nấu ăn sớm quá? Vợ chồng tôi nghĩ mình còn nửa mê nửa tỉnh cho nên nhầm lẫn chăng? Chúng tôi nhè nhẹ đi xuống bếp và chúng tôi chợt giựt mình thì ra là Thầy Lớn đang kho tương hột (tương này do chính Thầy làm, ủ cả năm qua) để cho phái đoàn hành hương của chúng tôi dùng trưa hôm đó. Lẽ ra chúng tôi phải xuống bếp phụ Thầy nhưng hai hàng nước mắt chúng tôi cứ chảy dài trên má nên chúng tôi bỏ vào phòng…

Đúng 8 giờ Thầy Nhỏ hướng dẫn phái đoàn chúng tôi lên đường, một số anh chị em phải “hy sinh” ở lại để cùng Thầy Lớn đón tiếp các phái đoàn hành hương khác viếng thăm chùa; khi chúng tôi đến viếng thăm các chùa, Thầy Nhỏ hướng dẫn chúng tôi tụng một thời kinh ngắn, sau đó giới thiệu sơ lược về ngôi chùa cũng như vị Trụ Trì tại bổn tự, đồng thời cũng không quên giảng một thời pháp ngắn. Đến xế trưa chúng tôi dừng lại một ngôi chùa Tàu ở trên đồi Farm, xung quanh cây cỏ, hồ nước và xa xa có vài chú ngựa, phong cảnh rất hữu tình. Chúng tôi bày thức ăn trưa tại đó và Thầy trò chúng tôi ăn uống vui vẻ và rất là ngon miệng nhờ có tương hột kho mà Thầy Lớn đã kho sáng nay, thật ngon tuyệt cho nên cơm canh rau cải gì đều hết sạch.

Sau gần 4 tháng ở chùa, vợ chồng tôi phải dọn ra ngoài vì đã tìm được nơi cư ngụ, nhưng khi về đến nhà mà lòng vợ chồng tôi lại nhớ đến chùa do đó vợ chồng tôi cứ đi đi về về và tiếp tục ở trên chùa nhiều hơn ở nhà trong suốt tháng đầu. Sau gần một năm sinh sống tại Úc cũng như sinh hoạt tại TVQĐ, nhóm Phật tử trẻ tuổi của chúng tôi mỗi người mỗi nơi đi theo con đường lý tưởng và ước nguyện của mình, trong nhóm chúng tôi đã có hai người giác ngộ được và đeo đuổi lý tưởng của mình, nay đã thọ Tỳ Kheo được nhiều năm. Chỉ có bọn con gái chúng tôi lúc ban đầu đều có ý tưởng và mong muốn như vậy, nhưng vì do nghiệp duyên còn ràng buộc, thiếu dũng mãnh và thiếu phước cho nên thay vì xuất gia, bọn chúng tôi lại xuất giá theo tiếng gọi của thế gian.

Melbourne mùa Phật Đản 2010

Đệ tử Thục Đức

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 8094)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 8185)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 5161)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37437)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6235)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6183)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5822)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5712)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5985)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5522)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]