Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

20 năm kỷ niệm... (Hồng Hạnh)

10/11/201319:01(Xem: 27591)
20 năm kỷ niệm... (Hồng Hạnh)

Canh_Tu_Vien_Quang_Duc (8)


Hai Mươi Năm Kỷ Niệm….

Tôi đến định cư tại Úc từ đầu năm 1980, nhưng đến năm 1991, gia đình chúng tôi mới di chuyển về vùng phía Bắc của thành phố Melbourne. Chị Năm Ốc người cùng quê của tôi ở Nha Trang đã điện thoại giới thiệu cho tôi biết một người đệ tử của Sư Ông Linh Sơn, đã lập được một ngôi chùa mới ở vùng Broadmeadows. Sư Ông là Hòa Thượng Thích Như Ý, Trụ Trì chùa Linh Sơn ở Cầu Dứa, Nha trang. Bà Ngoại và Mẹ tôi là Phật tử sinh hoạt ở chùa của Sư ông và có những kỷ niệm gần gũi và thân thương với các chú điệu ở chùa Linh Sơn. Đó là duyên khởi đầu để tôi ghé thăm ngôi Tu Viện Quảng Đức và đảnh lễ với Thầy Trụ Trì Thích Tâm Phương.

Đây là một căn nhà bằng gạch, có ba phòng, đặc biệt trước chùa là một hàng rào bằng gỗ màu xanh, nằm đối diện với một bãi đất trống mà ngày nay đã được xây thành bệnh viện của Thành phố Hume. Ngôi chùa tuy nhỏ nhưng trang nghiêm và ấm cúng. Cuối năm 1996, trong chương trình cải tổ về ngành Giáo dục của Thủ Hiến Jeff Kennet, một ngôi trường tiểu học ở Fawkner đã đóng cửa... Duyên may đã đến, Thầy Trụ Trì và các Phật tử mua lại được ngôi trường tiểu học ở đường Lynch, Fawkner để tôn tạo ngôi Già Lam Quảng Đức. Có nhiều Phật tử đã về chùa phụ giúp làm công quả, sơn sửa lại để đến ngày 20 tháng 11 năm 1997 Tu Viện Quảng Đức đã làm Lễ An Vị Phật. Năm sau thì các Phật tử thêm một tin vui, đó là bào đệ của Thầy Trụ Trì là Thầy Nguyên Tạng được bảo lãnh qua Úc theo diện nhà truyền giáo để phụ công việc chùa.

Quý Thầy và các Phật tử tiếp tục làm việc và xây dựng chùa. Đến tháng 9 năm 1999 Tu Viện Quảng Đức đã xây cất được hàng rào dài 90m, xây cổng Tam Quan, xây Tượng Đài Quan Âm, vườn Lâm Tỳ Ni, Vườn Lộc Uyển.

Trong khi công tác xây cất vẫn tiếp tục, đến tháng 5 năm 1999, Thầy Phó Trụ Trì đã thành lập Thư Viện điện tử dung chứa nhiều văn bản, tài liệu Kinh sách, truyện tích, thơ ca, hình ảnh sinh hoạt của Tu Viện Quảng Đức.... Nhờ vậy mà tôi đã có dịp đọc được nhiều bài viết giá trị của Quý Chư Tôn Đức, của các vị Danh Tăng Việt Nam & Thế Giới mà tôi ngưỡng mộ, thơ văn của các cư sĩ...Tôi đã thưởng thức nhiều bản nhạc rất hay do nhạc sĩ Võ Tá Hân phổ nhạc. Giữa đêm khuya thanh vắng tôi không thể không ngậm ngùi tưởng nhớ đến người Mẹ khi nghe Trần Trung Đạo ngâm thơ, một bài thơ nổi tiếng của anh “Đổi cả thiên thu tiếng Mẹ cười ".... Nhờ Trang Nhà Quảng Đức mà kiến thức về đạo Phật của tôi được mở rộng. Tôi đã đọc được nhiều tin tức Phật Giáo cũng như được "viếng thăm" nhiều ngôi chùa trên thế giới trên internet.

Vào ngày 10 tháng 12 năm 2000 Quý Chư Tôn Đức Tăng Ni đã đặt viên đá đầu tiên để xây dựng Chánh điện của Tu Viện Quảng Đức. Nhiều bữa cơm chay đã được tổ chức để gây quỹ, nhiều Phật tử đã làm thức ăn bán vào ngày Tết Nguyên Đán, lễ Phật Đản, lễ Vu Lan.... Những bàn tay, những tấm lòng của những người con Phật luôn tận tụy về chùa làm công quả. Ở chùa có một căn phòng dành cho những Phật tử về chùa làm công quả ngủ lại chùa. Tôi chưa có đủ duyên để được nghỉ đêm ở chùa, vì nghiệp còn nặng, vì gia duyên còn ràng buộc, nhưng tôi thật lòng thương mến các Cụ, các Bác, các chị đã nhiệt tình về làm công quả cho chùa. Tôi thấy ở chùa không bao giờ hết việc, lúc nào cũng có việc gì đó để làm, không ở dưới bếp thì trên điện Phật hoặc ngoài sân vườn chùa, lúc nào cũng cần có bàn tay chăm sóc của con người để cảnh chùa trở nên đẹp đẽ, trang nghiêm. Quý Thầy đã từng nói " Chúng ta là thế hệ thứ nhất nên phải hy sinh nhiều mặt để tạo dựng ngôi chùa cho thế hệ trẻ sau này”. Sinh hoạt chung với nhau cũng có những kỷ niệm vui buồn, có những lúc chị em hờn giận nhau nhưng đó chính là những bài học sâu sắc để mọi ngưòi tự quán chiếu lại bản thân mình tiếp tục tu thân dưỡng tánh.

Thấm thoát 20 năm đã trôi qua. Cuộc đời của tôi có thể ví như một người có cuộc sống nửa đời, nửa đạo. Một nửa cuộc sống của tôi là công việc hàng ngày, làm việc và kiếm tiền, có một cuộc sống an vui và hạnh phúc với chồng con . Nhưng là một đệ tử của Đức Phật tôi hiểu rõ cuộc sống vô thường, nên tôi làm gì, cúng được gì cho Tam Bảo là tôi phát tâm làm ngay chứ không ngần ngại. Tôi nhớ lời tâm sự của Tổng Thống Tôn Dật Tiên rằng: Tiền không phải là tất cả nhưng không phải không là gì. Đừng quá coi trọng đồng tiền, càng không nên quá so đo, nếu hiểu ra thì sẽ thấy nó là thứ ngoại thân, khi ra đời chẳng mang đến, khi chết chẳng mang đi. Nếu có người cần giúp, rộng lòng mở hầu bao, đó là một niềm vui lớn.. Nếu dùng tiền mua được sức khỏe và niềm vui thì tại sao không bỏ ra mà mua ? Nếu dùng tiền mà mua được sự an nhàn tự tại thì đáng lắm chứ! Người khôn biết kiếm tiền biết tiêu tiền. Làm chủ đồng tiền, đừng làm tôi tớ cho nó."

Một nửa cuộc sống kia của tôi là đời sống tâm linh, là những sinh hoạt trong Đạo Tràng Quảng Đức và làm công quả ở chùa. Nơi đây tôi đã gặp lại một người bạn học cũ ở Đàlạt và chúng tôi trở thành bạn đạo làm việc chung với nhau. Tôi là người không khéo nấu ăn nên theo Thanh Phi để học nghề, nhưng được vài năm tôi cũng vẫn an phận và khiêm tốn với chức vụ "thợ phụ". Thợ phụ có nghĩa là thợ xắt rau, rửa rau, rửa chén. ..làm theo yêu cầu của masterchef ; thợ phụ có nghĩa là múc thức ăn thơm mùi sã, tiêu... ra những chiếc hộp nhựa để bán gây quỹ trong dịp Tết hay ngày lễ Phật Đản, lễ Vu Lan. Cuộc đời làm công quả của chúng tôi cũng có những kỷ niệm khó quên. Trong một lần hấp xôi, Thanh Phi đã mở cửa lò hấp, vì hơi nóng từ lò tỏa ra rất mạnh nên Thanh Phi giật mình và theo phản xạ tự nhiên nhảy lùi ra phía sau, vấp phải thau dưa giá và ngã nhào xuống đất cách thau dưa giá khoảng một gang tay, quả thật nguy hiểm nhưng nhờ Phật gia hộ nên Thanh Phi chỉ bị trầy trụa sơ, và mọi người vẫn có dưa giá để ăn .

Những người bạn đạo ở chùa mà tôi thường sinh hoạt chung với nhau có thể ví như một đại gia đình. Thật cảm động khi nhìn thấy nhóm của anh Hiền, anh Thành, anh Đạo... về chùa làm công quả. Các anh là những người đã có vợ, có con nhưng mỗi ngày chủ nhật các anh lại tự về chùa để làm công quả. Những bàn tay "Handyman " của các anh đã hiện diện khắp nơi, khi thì lót gạch, sửa nhà bếp, trang trí Lễ Đài cho ngày lễ Chiêm Bái Phật Ngọc....

Tuy bận rộn với công việc xây dựng chùa, nhưng Quý Thầy Trụ Trì và Thầy Phó Trụ Trì thường xuyên khuyến khích Phật tử trong Đạo Tràng Quảng Đức phải tinh tấn tu học. Mỗi tối thứ sáu chúng tôi về chùa để lạy Tam Thiên Phật, lễ Sám hối và tụng năm giới mỗi tháng hai lần, dự khóa tu Bát Quan Trai đựợc tổ chức hàng tháng, tham dự khóa tu một ngày tại Chùa Tây Tạng ở Bendigo, tham dự khóa tu dành cho Phật tử do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại UDL-TTL tổ chức mỗi năm… như lời thơ của Tôn Nữ Hỷ Khương:

Còn gặp nhau thì hãy cứ đi
Đi tìm chân lý, lẽ huyền vi
An nhiên tự tại, lòng thanh thản
Đời sống tâm linh thật diệu kỳ!


Rồi vào năm 2008, tôi có đủ phước duyên để tham dự chuyến hành hương về thăm xứ Phật do Thầy Phó Trụ Trì hướng dẫn. Chuyến đi đã để lại trong tâm tôi nhiều kỷ niệm và có duyên gặp gỡ nhiều đạo hữu ở phương xa như nhóm của anh Trí Viên ở chùa Phật Ân, được trao đổi email với cô em dễ thương Helen Quảng Tuệ Nguyện, được kết duyên tỷ muội với Diệu An Quảng Tuệ Duyên và Xóm Nhà Lá... chuyến đi này đã giúp cho tôi tinh tấn hơn trên con đường đạo, tôi cũng cầu mong cho quý Phật tử Tu Viện Quảng Đức lần lượt có đủ phước duyên để về thăm Phật tích Ấn Độ một lần trong cuộc đời của mình, để có thể tự thân mỗi người đến nơi và nhìn thấy tận mắt những chứng tích lịch sử trong cuộc đời của Đức Từ Phụ, từ lúc sinh ra cho đến khi xuất gia, thành đạo, hành đạo, và nhập Niết bàn. Để mỗi người tự khẳng định niềm tin vào Chánh Pháp, để tha thiết chí thành tinh tấn tu học để giải thoát vòng sinh tử khổ đau.



hong hanh tu hoai-2
Tác giả (bìa trái) cùng Thầy Phó Trụ Trì Thích Nguyên Tạng, NS Tâm Vân, bạn Linh Hoa đến thăm và đảnh lễ
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 tại Dharamsala, Ấn Độ vào tháng 11 năm 2008



Sinh Lão Bệnh Tử là lẽ thường tình của một kiếp người, hữu thân hữu khổ, hữu thân hữu hoại, không có gì phải đau khổ và sợ hãi, vì thân tứ đại này trở về với cát bụi, nhưng phần tâm linh sẽ còn lại để đi siêu thoát, đây là lẽ tất nhiên mà hàng đệ tử đã học hiểu và thực hành để giải thoát. Nhân kỷ niệm 20 năm của Tu Viện, con xin có đôi lời cảm niệm tri ân đến quý Thầy, những người đã cho con được trở về Tu Viện Quảng Đức để tu học và làm công quả trong gần 20 năm qua, mai kia mốt nọ, con ước nguyện xin được nằm trong một góc nhỏ của Tháp Tứ Ân của chùa. Con xin nguyện đời kiếp này con mãi mãi là một Phật tử thuần thành của Tu Viện Quảng Đức như lời thơ của Tâm Minh Ngô Tầng Giao :

Thực hành chánh pháp chuyên cần
Đừng theo đường ác, chớ làm điều sai
Ai theo chánh pháp đời này
Niềm vui hưởng mãi kéo dài đời sau.

Melbourne, mùa đông 2010
Đệ tử Hồng Hạnh Tú Hoài

 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8089)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 4859)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37217)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6144)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6109)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5752)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5644)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5923)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5459)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8768)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]