Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Xúc Động Và Ngưỡng Mộ...(Hoang Phong)

10/11/201318:18(Xem: 28938)
Xúc Động Và Ngưỡng Mộ...(Hoang Phong)

Canh_Tu_Vien_Quang_Duc (63)

Xúc Động Và Ngưỡng Mộ
Những Người Con Phật

Suốt hơn 2.500 năm lịch sử, Phật giáo đã trải qua nhiều cuộc thăng trầm. Tại Trung quốc, trong thời đại nhà Đường và giữa thời kỳ cực thịnh của Đạo Pháp, chỉ trong vòng ba năm từ năm 842 đến 845 và cũng chỉ vì chính sách thù ghét Phật giáo của Hoàng đế Võ Tôn mà 260.000 Tăng sĩ phải hoàn tục, 50.000 chùa chiền và kiến trúc thiêng liêng bị san bằng thành bình địa.

Tại Ấn Độ, mảnh đất khai sanh của Phật giáo, trong khoảng thời gian thật ngắn ngủi từ 1197 đến 1198, quân xâm lăng Hồi giáo đã san bằng hai Đại học Na-Lan-Đà và Vikramasila, hàng triệu kinh sách bị đốt sạch, Tăng sĩ bị giết hại. Lúc ấy đại học Na-Lan-Đà có 10.000 nhà Sư đang tu học và tại Đại học Vikramasila thì con số Tăng sĩ lại còn cao hơn nữa, lên đến 12.000 người, không biết có bao nhiêu vị đã chạy thoát được, nhưng người ta chỉ biết rằng trong vòng năm mươi năm sau đó thì Phật giáo sau hơn 1.500 năm phát triển đã hoàn toàn biến mất trên đất Ấn.

Tàn phá thì rất nhanh nhưng kiến thiết thì đòi hỏi nhiều thời gian và kiên nhẫn hơn. Nóng giận, hận thù và hung bạo giống như một ngọn lửa bùng lên thật hung hãn, trong khi đó tu tập, yêu thương và xây dựng cần phải có quyết tâm, cố gắng và nhẫn nhục.

Tại Tây Tạng, trước năm 1959 trên toàn xứ sở có 100.000 Tăng sĩ và 6.000 ngôi chùa, nhưng đến năm 1990 thì chỉ còn lại 400 nhà Sư và 30 ngôi chùa còn nóc. Hàng chục ngàn nhà Sư phải lội tuyết, vượt đèo để đến Ấn Độ tị nạn. Trong số họ có nhiều vị sau đó đã rời nước Ấn và đi xa hơn nữa để quảng bá Đạo Pháp khắp nơi trên thế giới. Thật vậy, tu tập không phải chỉ đơn giản tự biến cải lấy chính mình mà còn phải dồn tất cả nghị lực để thách đố với vô minh của người khác, và để thử thách với những khắc nghiệt của bối cảnh chung quanh.

Những biến cố lịch sử tại Trung Quốc, Ấn Độ và Tây Tạng sau đó dường như cũng đã lập lại trên đất nước chúng ta. Bắt đầu từ thập niên 1960 cho đến biến cố tháng tư 1975... Nếu có những người đã chắp tay và ngồi xuống trong lửa đỏ để đánh thức lòng người và để bảo vệ Phật Pháp trên quê hương thì cũng có những người âm thầm đem sinh mạng của mình thách đố với biển cả và hiểm nguy để bảo vệ chính kiến và đem Phật Pháp đến những bến bờ xa xôi.

Vào ngày 16 tháng 2 năm 1986 Đại Đức Tâm Phương rời trại tỵ nạn Pulau Bidong để đến Sydney, Úc Châu. Ngày 20 tháng 6 năm 1990 tu viện Quảng Đức được xây dựng tại thành phố Melbourne, đúng 90 năm sau ngày lập quốc của Úc Đại Lợi.

Khởi đầu chỉ là một căn hộ chật hẹp gồm có ba gian phòng nhỏ trong một cư dân vùng Broadmeadows, cách thành phố Melbourne khoảng 30 phút lái xe.

Sáu năm sau, đúng vào ngày 20 tháng 6 năm 1996, Đại Đức Tâm Phương nhờ sự giúp sức của Phật tử địa phương đã tậu mãi được một ngôi trường tiểu học cũ kỹ trong một khu đất rộng 8.000 mét vuông thuộc vùng Fawkner, chỉ cách trung tâm Melbourne 19 cây số về phía Bắc. Thầy trò ra sức sửa sang ngôi trường tiểu học để tạo cho nó có chút hình dáng của một ngôi Chùa. Ngày 20 tháng 11 năm 1997 lễ khánh tạ và an vị Phật được tổ chức thật long trọng, chư Tôn Đức Giáo Phẩm và Phật tử trên toàn nước Úc và từ một số quốc gia khác đã đến tham dự thật đông đảo.

Ngày 5 tháng 4 năm 1998, Đại Đức Nguyên Tạng bào đệ của Đại Đức Tâm Phương được bảo lãnh đến định cư tại Úc với tư cách một nhà truyền giáo, và Đại Đức đã góp thêm một cánh tay thật đắc lực cho Tu viện. Hai tháng sau thì Gia đình Phật tử Quảng Đức được thành lập. Ngày 1 tháng 7 năm 1998, Đại Đức Nguyên Tạng được chính thức nhận làm thành viên của Hội đồng Giáo sĩ Tuyên úy (Healthecare Chaplaincy Council). Đại Đức Tâm Phương cũng là thành viên của tổ chức này kể từ năm 1991. Hội đồng Giáo sĩ là một tổ chức mang tính cách nhập thế, thường xuyên đứng ra tổ chức các cuộc viếng thăm và an ủi các bịnh nhân và tù nhân. Ngay từ năm 1990 Đại Đức Tâm Phương cũng đã được Bộ Tư pháp tiểu bang Victoria thừa nhận là Viên Chức Hòa Giải Công Lý (Justice of Peace) giữ chức vụ giúp đỡ người dân trong các vấn đề hành chính và tư pháp. Những chi tiết nêu ra trên đây đã chứng tỏ Tăng đoàn của Tu viện Quảng Đức đã hoàn toàn hội nhập và tham gia trực tiếp vào những sinh hoạt của xã hội Úc.

Ngày 15 tháng 5 năm 1999, Tu viện khai trương trang điện tử : www.quangduc.com, lấy tên Tu Viện Quảng Đức đặt cho trang nhà, và sau đó trang nhà Quảng Đức đã nhanh chóng trở thành một trong những trang điện tử về Phật giáo phong phú nhất hiện nay và đã chinh phục được số độc giả đáng kể, trung bình mỗi ngày có khoảng 2000 người vào xem trang nhà, ngay thời điểm này đã có hơn hai triệu người vào trang nhà Quảng Đức.

Ngày 10 tháng 12 năm 2000, Tu viện tổ chức lễ động thổ xây dựng ngôi chính điện thay cho ngôi trường tiểu học trước kia. Vừa phải xây chùa, tu tập và đảm đang các sinh hoạt Phật sự thường nhật, nhưng Tăng đoàn vẫn cố gắng tổ chức các ngày lễ kỷ niệm như "Bông Hồng dâng Mẹ" (Nhân mùa Vu lan), lễ truy niệm các vị Đại Lão đã viên tịch như Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Đại Lão Hòa Thượng Thích Đức Nhuận, Đại Lão Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang ...tổ chức các buổi thuyết giảng, các khóa An cư, ngày lễ Dâng y Kathina của Nam tông v.v...

Sau ba năm xây cất, Tu viện Quảng Đức đã được hoàn thành đúng như ước nguyện của Tăng đoàn và Phật tử. Đại lễ khánh thành được tổ chức thật trọng thể suốt trong ba ngày, từ ngày 10 đến 13 tháng 10 năm 2003. Nhân dịp này Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã tổ chức một Đại Hội bất thường để suy tôn Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang lên ngôi vị Đức Đệ Tứ Tăng Thống Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, với sự tham dự của 134 chư Tôn Đức Tăng Ni và hơn 5.000 Phật tử đến từ khắp nơi trên đất Úc và từ một số quốc gia khác. Cũng nhân trong dịp lễ này, ngày chủ nhật 12-10 vào lúc 3 giờ chiều, một buổi tuyên thệ tập thể để nhập quốc tịch Úc của 100 Phật tử đã được diễn ra một cách thật long trọng và vui vẻ tại Tu viện trước sự chứng kiến của chính quyền Úc.

Từ ngày 1 đến ngày 5 tháng 1 năm 2005, Tu viện Quảng Đức tổ chức Khóa học Phật Pháp Úc châu lần thứ 4. Ngoài ra tu viện còn tổ chức các chuyến hành hương ở Trung Quốc, Ấn Độ... Tăng đoàn và Phật tử Quảng Đức không những biết quan tâm đến những sinh hoạt Phật sự nơi Tu viện của mình và của Giáo Hội tại Úc châu mà còn huy động mọi nỗ lực để giúp đỡ các nạn nhân trên quê hương, chẳng hạn như vụ sập cầu ở Cần Thơ, các nạn nhân bão lụt ở các tỉnh miền Trung và ngay cả những quốc gia nghèo lâm cảnh đói khổ bởi thiên tai (Miến Điện, Haiti...) Đồng thời đã từng kết hợp với Giáo Hội Phật Giáo Úc Châu để cứu trợ và cầu nguyện cho người dân Úc trong lần cháy rừng khủng khiếp vào đầu tháng 2 năm 2009, để tỏ lòng tri ân đối với đất nước đã cưu mang dân tộc mình. Đợt cứu trợ hỏa hoạn này tổng trị giá lên đến hàng trăm ngàn Úc Kim

Từ ngày 11 đến 19 tháng 10 năm 2008, Tu viện tổ chức cung nghinh Xá Lợi của chư Phật và chư Bồ tát và trong dịp này đã có khoảng 2.500 Phật tử trên đất Úc và các quốc gia Á châu khác thân hành đến Tu viện để chiêm bái.

Ngày 5 đến 20 tháng 12 năm 2009, Tu viện Quảng Đức cung nghinh Phật Ngọc và đã thu hút thật đông đảo Phật tử khắp nơi đến chiêm bái.

Thật ra trên đây chỉ là một phần nhỏ các sự kiện được trích ra từ tập "nhật ký" của Tu viện Quảng Đức. Những sự kiện đó chứng tỏ một cách hùng hồn sự sinh hoạt của Tu viện thật đa dạng, tích cực và gồm cả hai khía cạnh nhập thế và xuất thế.

Khi lật lại những trang "nhật ký" trên đây chúng ta không khỏi xúc động và ngưỡng mộ những người đã hy sinh tất cả đời mình để phục vụ cho Đạo Pháp, giữ vững truyền thống tín ngưỡng của dân tộc và giúp đỡ những người đồng hương đang sinh sống trong một quốc gia xa lạ.

Sự hung bạo và hận thù có thể bùng lên trong nhất thời nhưng hậu quả gây ra thì rất quy mô và rộng lớn. Tu tập và xây dựng tuy có lâu dài và khó khăn hơn nhiều nhưng thật ra bước đầu cũng chỉ cần một đóm lửa từ bi trong tim và một tâm niệm tích cực trong tâm thức cũng đủ để tạo ra một hạt giống tốt, và thật ra thì cũng chính là nhờ vào những hạt giống như thế mà Đạo Pháp đã trường tồn qua không gian và thời gian. Vì thế dù đang ở trên quê hương hay bất cứ một nơi nào xa lạ trên hành tinh này thì chúng ta hãy cứ nhìn vào tấm gương của Tăng đoàn và Phật tử Quảng Đức để cùng nhau chung sức thắp lên ngọn đuốc của Đạo Pháp và để tạo ra một dịp may để ghi lại những dòng nhật ký đẹp nhất cho đời mình.

Viết tại Bures-Sur-Yvette, Pháp Quốc 21.10.10

Hoang Phong

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8089)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 4859)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37217)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6144)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6109)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5752)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5644)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5923)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5459)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8768)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]