Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cho để con tu cứu đời (T.Nguyên Chánh)

23/09/201314:56(Xem: 10272)
Cho để con tu cứu đời (T.Nguyên Chánh)

HT Thich Chi Tin


CHO ĐỂ CON TU CỨU ĐỜI

Ôn trụ trì- gọi thế là đủ để nói hết một con người, không cần nói thêm gì nữa mà tất cả ai, đã sống và đang sống tại thành phố Nha trang cho đến thời điểm này, đều biết về Ôn- Trưởng lão Hoà Thượng Thích Chí Tín, trụ trì sắc tứ Long Sơn tự- tp Nha trang- tỉnh Khánh Hoà- thường quen gọi trong tâm thức mọi người- Chùa Tỉnh Hội.

Sau 1975- một chiếc xe đạp củ kỹ đi khắp các chùa chiền trong thành phố Nha trang, để nhắc nhỡ, sách tấn tinh thần của Tăng Ni làm Phật sự, động viên Phật tử tu học, đó là hình ảnh quen thuộc. Sau yên xe đạp một bó rau muống được cột chặt Ôn mua ở Chợ đầm vào mỗi buổi sáng, để về nấu ăn cho Tăng chúng, đó là hình ảnh thường ngày. Bệnh nhân ở bệnh viện đa khoa tỉnh Khánh hoà, và các trạm xá, các bác sĩ, y tá, nhân viên gác cổng qua nhiều thế hệ, ai lại không quen thấy hình ảnh Ôn, một tu sĩ với chiếc áo dài nâu bạt màu, vai mang, tay xách nhiều thứ, trái cây, sữa, đường, bánh và tiền tự đi mỗi phòng gửi bệnh nhân, an ủi họ trong lúc đau bịnh, đó cũng là hình ảnh quá quen thuộc của Ôn trong suốt bao nhiêu năm, Ôn có mặt tại Nha trang và ít nhất gần 35 năm tôi được biết Ôn. Có thể nói, thời gian miệt mài như thế, và hành động của Ôn cứ kiên trì như thế, cuộc đời của Ôn thể hiện một hình ảnh như thế, đâu cần nói nhiều, vậy mà bao nhiêu thế hệ người tu đi qua, chắc khó tìm được ai hơn thế.

Ông Nội tôi chết, rồi Ông Ngoại tôi mất, kế đến Mẹ tôi qua đời, không một lời thỉnh cầu của gia đình, không cần phải thưa thỉnh, cung đón rình rang, cứ thế cách khoảng trong nhiều năm, Ôn lặng lẽ quang lâm nhiều tư gia, đốt hương, tụng kinh cầu nguyện và chia buồn với gia đình, cách tâm ấy, sự quan tâm ấy, tình người ấy, đã để lại quá nhiều cung bậc kính trọng đối với Ôn, trong tâm thức của người Phật tử và không phải Phật tử khi họ có mặt để tham dự rất nhiều lễ tang diễn ra tại thành phố Nha trang.

Bao nhiêu lễ hội của các chùa chiền trong thành phố Nha trang diễn ra, từ lễ nhỏ đến lễ lớn, Ôn không bao giờ tham dự, thế mà mọi thứ Ôn đều biết rất rõ, cặn kẻ, và có lời khích lệ chân thành, như là công việc của chính ôn, tính khiêm nhường, không câu nệ hình tướng của một bậc xuất sĩ, cao Tăng là thế đó. Ngày chùa chúng tôi khởi công xây dựng, khánh thành đều có sự gia tâm của Ôn. Ôn gửi tiền cúng dường không là bao nhưng đó là sự quan tâm, lời động viên quý giá vô bờ bến mà Thầy tổ của chúng tôi, bao thế hệ huynh đệ, Phật tử tại chùa, không ai không nhớ đến ân tình của Ôn, người đã nặng lòng với tương lai của đạo pháp, tiếp trợ hậu lai là thế đó. Thật không biết, bao nhiêu hình ảnh xuất lộ từ hạnh nguyện quảng đại của Ôn, ngang qua một con người bình dị, mộc mạc, chân chất đậm đạo tình, đã để lại cho nhân thế một bài học vô cùng quý giá, dễ nhưng thật khó hành.

Nhớ lại, năm 1986 tôi có chuyến theo hầu thầy Bổn Sư đi ra thăm cố đô Huế, sự tình cờ, Thầy trò chúng tôi gặp Ôn đi theo đoàn hành hương ghé thăm Tổ đình Từ Đàm. Cũng chiếc nón lá củ kỹ, áo nâu Ôn mặc phơi bạc theo năm tháng, trên vai mang một túi vãi, hình ảnh như một Bố Đại Hoà Thượng. Chúng tôi đến vái lễ Ôn, Ôn lặng lẽ lấy từ trong túi ra, không cần biết là bao nhiêu tiền, Ôn cho tôi. Tôi nhận và cám ơn Ôn. Trưa ngày hôm đó, chúng tôi đến Tổ đình Từ Hiếu, tình cờ gặp lại đoàn của Ôn cũng đến thăm Từ Hiếu, tôi vái lạy Ôn, lần nữa thói quen đó, Ôn lại lấy tiền từ trong túi vãi ra, cho tôi nữa. Tôi cũng không dám nói gì, lặng lẽ nhận và cám ơn Ôn. Chiều hôm đó, chúng tôi lên Tổ đình Trúc Lâm, lại gặp Ôn cũng ghé Trúc Lâm, tôi lại vái lễ chào Ôn. Cũng thói quen đó, Ôn thò tay vào túi vãi và lấy tiền ra cho tôi thêm nữa. Lần này, thì tôi mạnh dạn thưa Ôn, sao Ôn cho con tiền hoài vậy, sáng giờ con nhận của Ôn hai lần rồi. Ôn nghe tôi nói xong, không cười vẫn thản nhiên Ôn nói: “ Cho để con tu rồi cứu đời”. Kính lạy Ôn! Giá trị số tiền Ôn cho con không là bao nhiêu, lời dạy của Ôn rất ngắn, nhưng đã cho con một hành trang vô tận, lời dạy ấy đã đi theo con suốt chiều dài con lớn, và ẩn nấu trong tâm thức của con, và dỏi theo con trên bước đường con đi. Lời dạy của Ôn cho con, vẫn còn đang sáng rực, chiếu soi những bước chân của con TU ĐỂ CỨU ĐỜI. Tu để cứu đời, phải chăng là bản thể của người xuất gia, là hạnh nguyện rộng lớn của Ôn hiện hữu giữa trần thế. Ôi! Mộc mạc không văn hoa lời lẽ, chân thành không câu nệ hình thanh, thế mà cuộc đời Ôn đã chuyển tải hết màu sắc đạo hạnh, phẩm chất thanh cao của người tu Phật là thế đó, thế gian trôi nỗi, bao nhiêu hình thanh, tướng trạng sẽ bị chôn vùi, còn lại chăng đạo tình và hạnh trạng cứu đời, chứa đầy tâm nguyện vô biên, phục vụ chúng sanh chính là cúng dường chư Phật.

Hôm nay, tại thành phố San Diego, Hoà thượng Thích Nguyên Siêu một đệ tử của Ôn đã thiết lễ truy niệm, phục tang, hầu xưng tụng công hạnh cao cả của một bậc thầy khả kính của tầng tầng lớp lớp đệ tử tại gia, trong cũng như ngoài nước, có mặt trên khắp nẽo đường, quy hướng về chùa Phật Đà, thắp một nén hương tâm, nhớ tưởng một bậc xuất trần, long tượng của chốn thiền môn, đã thanh thản nhẹ gót ra đi, để lại vô vàn niềm kính tiếc.

Ôi! Một ngôi sao sáng giữa bầu trời rộng lớn, đã rơi rụng trong chốn u minh, thức tỉnh biết bao con người. Một tâm hạnh cao cả thênh thang đã một thời ôm ấp bảo bọc quần sanh như biển dài vô tận làm sáng đẹp cuộc đời.

Con xin nhiếp tâm hướng về Sắc tứ Long Sơn Tự thành kính đảnh lễ Giác Linh Ôn, cầu nguyện giác linh Ôn cao đăng Phật quốc, sớm hồi nhập Ta bà, cứu độ quần sanh.

Kính bái,

Thích tử Nguyên Chánh



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 6012)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
24/06/2011(Xem: 8397)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 5445)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 5907)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 6878)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 7587)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 5140)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 6562)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 6517)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 14444)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]