Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02. Tinh thần Bồ tát Thích Quảng Đức

06/06/201214:19(Xem: 8723)
02. Tinh thần Bồ tát Thích Quảng Đức

TINH THẦN BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC

tinhthanbtquangducKhi tôi lớn lên, biết nhận thức đủ đầy giá trị lịch sử của công cuộc đấu tranh Phậtgiáo năm 1963, thì tất cả dường như dầnđi vào thế ổn định và ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát thích Quảng Đức cũng đang nguội tàn!

Nhiều ýkiến nhận định đó có thể do hoàn cảnhkhách quan, hoặc do có một bàn tay nàođấy thọc sâu vào nội tình Phật giáo, cố tình làm nguội lạnh ngọn lửa Bồ Tát Thích Quảng Đức và và chuyển hướng ýnghĩa cuộc đấu tranh bất bạo động ấysang một lối rẽ đen tối khác. Nếu khôngthì có lẽ do chính kiến thức non kém của mình còn chưa đủ nhận ra được những vấnđề chung quanh đó.

Có lẽ là vậy!

Vẫn biếtrằng, từ sau Pháp nạn năm 1963 đó trở về sau Phật giáo miền Nam còn phải trải qua nhiều giai đoạn lận đận, truân chuyên nữa với nhiều hình thức đấu tranh khác. Đó làxu thế tất yếu một khi PG khi ấy đã trở thành một khối thống nhất, có hiếnchương, có đường lối rõ ràng của một tổchức Phật giáo thời đại.

Nhưng vớithiển ý mình, tôi vẫn xem tất cả mọidiễn biến đều nằm trong một đường dây xuyên suốt, không có đứt quãng. Tấtcả đều từ sức mạnh của ngọn lửa Bồ tát Thích Quảng Đức mà có được.

Đó là việc lớn.

Tôi rấttự hào mình thuộc thời đại Quảng Đức, là một công dân Phật tử thuộc Miền QuảngĐức (khu vực phân lập của Giáo Hội là Sàigòn - Chợ Lớn - Gia Định) và đương nhiênPháp danh đầu tiên của tôi cũng là từ họ Quảng - theo mong mõi của chư tôn lãnhđạo Phật giáo thời bấy giờ là tất cả các cư sĩ Phật tử đều sẽ mang ”họ”Quảng của Bồ Tát Quảng Đức.

Chínhtinh thần ngọn lửa Bồ Tát Thích Quảng Đức đã hun đúc nên sức mạnh của Tăng Tín Đồ Phật giáo trên từng cửa đời tu tập và giữ gìn ngọn cờ ngũ sắc thiêng liêng trong một quảng thời gian khá dài, phầnlớn đềuchạm mặt với nghịch duyên mangnhiều tên gọi.

Với riêngtôi, tinh thần ấy đã giúp vững bước và tin yêu cuộc sống thiết tha trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Vì vậy, nhờ cóniềm tin đó mà mỗi năm nhân mùa Phật Đản, tôi và gia đình đều lấy làm tự hào khi treo lên trước nhà lá cờ Phật giáo tươi sắc, điểm xuyết với một góc trời xanh, dù chung quanh đó không có ai treo như mình! Một lá cờ mà vìnó một triều đại phải tan tành; và một lá cờ như vậy mà vẫn có người ngây ngôhỏi rằng “Anh treo cờ nước nào vậy?”.Mấy chục năm trường rồi đến giờ vẫn vậy. Sự ngây ngô vẫn còn.

Cái tinhthần ấy đã hòa quyện vào từng máu thịt, hơi thở. Nó len lỏi theo từng ngày thàng bôn ba lận đận, thậm chí khi thi vẽ tôi cũng chọnhình ảnh Bồ Tát Thích Quảng Đức thể hiện. Nhất là ảnh Bồ Tát ngồi viết Lời Nguyện Tâm Huyết(ảnhđính kèm) với câu nói dõng mãnh của Ngài Tôi thiết tha kêu gọi Đại đức, Tăng Ni và Phật Tử, nên đoàn kết nhấttrí, hy sinh để bảo tồn Phật pháp”. May mắn làm sao cho đếnhôm nay được sự giúp đỡ của đạo hữu Đức Quảng, tôi mới biết tác giả chụp bứcảnh đó năm 1963 là huynh trưởngGĐPT Hồ Quang Thanh (làm kỹ thuật trongphòng tối thời bấy giờ). Năm 1965 bức ảnh được VHĐ chọn in thành lịch và phổbiến rộng rãi. Đạo hữu Đức Quảng đã chụp lại từ những tờ lịch đó và trau chuốt cho sắc nét hơn như chúng ta đã thấy.

Cuộc sốngtrong tôi, dù ngoài xã hội hay trong môi trường đạo, cuộc trải nghiệm sâu sắcnhất chính là tinh thần Bồ Tát ThíchQuảng Đức. Vì thế cả một quãng đời thanhxuân của mình, tôi luôn sống bằng tâmnguyện dấn thân, không ngại khó, không ngại khổ (vì đã từng là con nhà nghèo rồi có chi mà phải sợ khổ).

Trong môitrường hoạt động thanh niên Phật giáo, những kết hợp đó còn giúp cho tôi một ý chí quyết đoán, chấp nhận phần khó về mình với một tâm hồn hoan hỷ để hoàn thành trách nhiệm hướng dẫn đàn em. Có lẽ vì thế màtrong Tổng Vụ Thanh Niên có sáu Vụ, tôi đã có thời gian lăn lộn sinh hoạt hếtba Vụ (Gia Đình Phật Tử - Sinh Viên Phật Tử và Học Sinh Phật tử).

Ảnh đínhkèm theo đây năm tôi 18 tuổi trong màuáo Học Sinh Phật Tử khi được biệt phái sang hỗ trợ xây dựng.

DKT_Anh_HSPT-nam_18_tuoi

Về trườnghợp này có không ít lời ra tán vào khôngđồng tình cái sự “năng nổ” ấy của tôi, thậm chí có cả những lời miệt thị. Nhưngcho đến tận bây giờ tất cả đều cho thấy câu trả lời vô ngôn bằng những diễn bàythế sự trước mắt, không theo mong muốnbất kỳ ai.

Tinh thầndấn thân của mình vẫn còn nguyên giá trị.

Những ngàyPhật đản này, nhiều lớp anh chị huynh trưởng cùng thời, dù đã bước vào cái độ tuổi “hồi đó”nhưng cũng thườnghay gặp nhau để nhắc chuyện…hồi đó! Nhiềuanh chị tỏ ra tiếc nuối, thầm tự trách mình rằng sao hồi đókhông hoạt động,không làm nhiều như (tôi DKT) đểbây giờ có muốn làm cũng không còn sức lực mô mà làm. Cũng có nhiều anh chị khácthì khẩn khoản, rụt rè, ngại ngùng vìkhi xưa đã xài hết vốn liếng chợ đời để “tặng“tôi.

Nói chung thìthương lắm. Bây giờ mà còn trách ai được nữa và có ích lợi chi. Thôi thì hảy kểlại với thế hệ đàn em rằng hãy sống vàcống hiến hết mình khi sức lực và nhân duyên còn mở lối. Hãy mang trong mình con timvà tinh thần của Bồ Tát Thích Quảng Đức để phụng sự đạo pháp – dân tộc.

Câu trả lời làcách sống tự tại của mình trong hiện tại, nhỏ nhất là qua hình ảnh tại sao vẫnhiên ngang treo cờ Phật giáo mừng Phật đản giữa trùng vây bị gán cho là xa lạ!Việc treo cờ ấy tôi quan niệm rằngnếu mình chưa hay không làm được việc gì lớn cho đạo pháp thì ít ra một lá cờ treo lên nhân ngày Phật đản cũng không phải khó khăn gì và không tốn mộtgiọt mồ hôi nào. Chính tinh thần Bồ Tát Thích Quảng Đức đã khơi dậy trong tim mình dòng nhiệt huyết BI TRÍ DŨNG, cái vốn sống vô giá trong mọi thời đại. Nếu tôi thiếu vắngđi điều ấy thì có lẽ hôm nay không có những dòng này, không có những mùa Phật đản lá cờ Phật giáo âm thầm tung bay nơi góccao mái nhà mình hằng năm.

Và đó cũng làcâu trả lời cho câu hỏi Tại sao mỗi năm vào dịp Phật đản và kỷ niệm ngày Bồ Tát thích QuảngĐức thiêu thân tôi thường có bài viết màchủ đề không hề thay đổi(các bài “… NĂM XIN ĐỪNG QUÊN).

TưởngNiệm 49 năm ngày Bồ Tát Quảng Đức tự thiêu

DƯƠNGKINH THÀNH

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 8031)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 8127)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 4971)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37288)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6167)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6121)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5763)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5648)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5929)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5462)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]