Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07. Bồ tát Thích Quảng Đức với quả tim bất diệt

06/06/201214:19(Xem: 9985)
07. Bồ tát Thích Quảng Đức với quả tim bất diệt

BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC
VỚI QUẢ TIM BẤT DIỆT

Cư Sĩ NGUYỄN ĐỨC CAN
E-Mail : [email protected]
----o0o----

NGUYÊN NHÂN :

Tất cả các chi tiết từng giờ, từng ngày trong diễn tiến cuộc tranh đấu của Phật Giáo từ khởi đầu đến kết thúc bằng cuộc cách mạng lật đổ một chế độ độc tài gia đình trị, tôn giáo trị, của giòng họ Ngô năm 1963, đã được các cơ quan truyền thông báo chí phổ biến từ 42 năm qua,. Lịch sử vẫn là lịch sử, không ai có thể chối cãi được, ngoại trừ những kẻ ngoại đạo, đã và đang tìm mọi cách để vu cáo, xuyên tạc lịch sử hầu đánh lừa các thế hệ mai sau. Trong phạm vi bài này tôi chỉ tóm lược một số nguyên nhân chính để đưa đến sự tự thiêu của Bồ Tát Thích Quảng Đức năm 1963, hầu bảo tồn đạo pháp và dân tộc.

Vụ khủng hoảng chính trị ở Miền Nam VN bắt nguồn từ lệnh cấm treo cờ Phật Giáo nhân mùa Phật Đản, phật lịch năm 2507 (ngày 8–5-1963) của chính phủ Ngô Đình Diệm. Nguyên Tổng Giám Mục Huế là Ông Ngô Đình Thục (anh ruột của Ông Ngô Đình Diệm), nuôi tham vọng được thăng chức Hồng Y, ra lệnh cho chính quyền địa phương cấm phật tử treo cờ Phật giáo trong dịp lễ Phật Đản. (Hành động này tương tự như một vị Hòa Thượng áp lực chính quyền cấm giáo dân đạo thiên chúa treo cờ Vatican trong dịp lễ mừng Chúa Giáng Sinh). Các Tăng, Ni phật tử cảm thấy bị nhục mạ, tìm cách chống đối, kể cả Tướng Lê Văn Nghiêm, Tư lệnh Quân đòan I. Đúng ngày Phật Đản, Thượng tọa Trí Quang đọc diễn văn tại chùa Từ Đàm, với sự hiện diện của khá đầy đủ các viên chức chính quyền và quân sự, đòi hỏi bình quyền tôn giáo. Tối đó, Phật tử Huế biểu tình chống lệnh cấm treo cờ, rồi tụ họp trước đài phát thanh để yêu cầu phát lại bài diễn văn của Thầy Trí Quang. Chính phủ đàn áp vô cùng dã man. Cuộc tranh đấu bùng nổ khắp miền Nam. Mãnh liệt nhất là tại cố đô Huế và Đà Nẵng.

Lệnh cấm treo cờ Phật Giáo nhân dịp Phật Đản là một sai lầm vô cùng nghiêm trọng và đây là một ngọn lửa đưa vào thùng thuốc súng để có dịp bùng nổ, sau bao nhiêu năm vẫn âm thầm âm ỷ, mà chưa có dịp bộc phát. Sau này, chính phủ Ngô Đình Diệm và cá nhân Ông Nhu tìm cách che đậy sai lầm của họ bằng cách ngụy biện rằng Ông Diệm chỉ cho lệnh cấm treo cờ nơi công cộng, và phải treo cờ tôn giáo cùng với quốc kỳ Việt Nam Cộng Hoà, tức cờ vàng 3 sọc đỏ tại các chùa chiền. Sai lầm hơn nữa, Ông Ngô Đình Nhu (em ruột của Ông Diệm) và tay chân vu cáo rằng những người tham gia các cuộc tranh đấu là “cán bộ cộng sảnhoặc “các phần tử chống đối chế độ một cách quá khích. Lời vu cáo này trong khuôn khổ pháp luật đương thời, có nghĩa chính phủ Ngô Đình Diệm được toàn quyền trừng trị những kẻ phiến loạn trên, từ tù đày tới tử hình. Không hiểu tại sao anh em Ông Ngô Đình Diệm và thuộc hạ có thể thản nhiên, lì lợm chụp cái mũ cộng sản cho những người tranh đấu đòi bình đẳng tôn giáo (Thiên Chúa giáo và Phật Giáo), không đưa ra được một bằng chứng nào, “Trong khi đó chính anh em Ông Diệm + Nhu đang tiếp tục bí mật ve vãn Cộng Sản” qua đường dây Vatican và Pháp. Đâu có ngờ chính khâm sứ Salvadore d’Asta của tòa thánh Vatican và đại sứ Pháp Roger Lalouette lại mang bí mật của họ Ngô tố cáo với Mỹ. Bởi vậy chảng những không tin lời tố cáo Phật Giáo của chế độ Diệm, chính quyền Mỹ còn đi đến quyết định “thay ngựa”, thật là trời bất dung gian, đúng là “Mưu sự tại nhân và thành sự tại thiên”. Lấy thứ pháp luật man trá để dễ giết hại người, rồi cũng có ngày bản thân và gia đình phải gánh chịu hậu quả vì thứ pháp luật ấy. Những ai có tham vọng đại sự chớ quên tấm gương ố máu của anh em Ông Diệm. “Mưu thâm thì họa dược thâm”.

Biến cố Phật Đản 1963, đã làm cho chính quyền Kennedy hoang mang và tự hỏi ? Ho. Phật Giáo Việt Nam là ai đây? Vì Ông cùng các cố vấn thân cận của Ông chẳng ai hiểu gì về Phật Giáo cũng không lấy gì làm lạ bởi đại sứ Frederick Nothing và Giám đốc CIA John Richardson đều là những kẻ che đậy sự thật và bênh vực chế độ nhà Ngô lúc đó, không có báo cáo của hai ngành này thì làm gì có thể biết được.

Đã đến lúc thời vận của nhà Ngô đã hết, nên giữa lúc tranh đấu của Phật giáo đã nên đến cao điểm thì Đại Sứ Nothing lại rời Việt Nam đi nghỉ phép thường niên để cho phó Đại Sứ William C. Truehart xử lý thường vụ. Cho nên chính quyền Kennedy đã vội chỉ thị cho Truehart phải dùng mọi áp lực để khuyến cáo chính quyền Ngô Đình Diệm phải ngừng đàn áp Phật Giáo và phải công khai giải quyết các đòi hỏi của Phật Giáo. Do đó ngày 5/6/1963, Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ được lệnh tiếp xúc với phía Phật Giáo.

Ngày 14/6 chính quyền và Phật Giáo chính thức họp ở hội trường Diên Hồng và hai ngày sau. Ngày 16/6 thông cáo chung về năm nguyện vọng của Phật Giáo đã được hai bên cùng ký kết. Ngày 17 tháng 6 Phật giáo ra thông cáo tuyên bố đời sống mọi sinh hoạt trở lại bình thường và thành tâm cầu nguyện cho 5 nguyện vọng thông cáo chung được thi hành nghiêm chỉnh. Quả thực không sai, phía chính quyền thì nhượng bộ nhưng phía gia đình trị và tôn giáo trị không chấp nhận. Do đo, chưa đầy một tuần lễ sau là một chiến dịch do Ông, Bà Ngô Đình Nhu và Ông TGM Ngô Đình Thục đã tận dụng mọi phương tiện của nhà nước dùng các tổ chức Thanh Niên Cộng Hòa, Hội Phụ Nữ Liên Đới, trung tâm Nhân Vị Vĩnh Long, đảng Cần Lao, thương phế binh, Công An mật vụ………. Truyền thông báo chí thi nhau vu khống, mạ lỵ đàn áp, cách chức, bắt giam, ám sát, bắt cóc, tra tấn, thủ tiêu... Thế là Các nhà lãnh đạo Phật Giáo lại phải kêu gọi các chư Tăng, Ni cùng đồng bao Phật tử vùng lên tái đấu tranh.

Cuộc tranh đấu này quả thực gay go và phức tạp, Ngoại Trưởng Vũ Văn Mẫu đã phải từ chức để phản đối hành động đàn áp Phật Giáo của chế độ Ngô Đình Diệm, ông Trần Văn Chương, đại sứ của chính phủ VNCH tại liên hiệp quốc và là thân phụ của Bà Ngô Đình Nhu, cũng từ chức để phản đối cuộc đàn áp Phật Giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Tướng Lê Văn Nghiêm tư lệnh Quân Đoàn I, lên tiếng phản đối sự đàn áp dã man của phía chính quyền thì bị cách chức, đa số các quân nhân ở Quân Đoàn I đã cùng đồng bào Phật Tử tham gia biểu tình, nhất là ở tại Huế và Đà Nẵng. Thị Trưởng Đà Nẵng lúc đó là Đại Tá Lê Quang Mỹ nguyên tư lệnh Hải Quân, bị cách chức, său đó lại được Tổng Thống Ngô Đình Diệm cử Đại Tá Trân Ngọc Châu ra hay thế. Trần Ngọc Châu có rất nhiều kế hoạch thâm độc để đánh phá các cuộc biểu tình của Phật Giáo lúc đó. Tại Huế và Đà Nẵng khí thế tranh đấu đòi bình đẳng tôn giáo (Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo) của Phật Giáo rất sôi động.

Tại Sài gòn lúc đó trụ sở chính của ủy ban Liên Phái Phật Giáo vẫn đặt tại Chùa Xá Lợi, nhưng quí ngài lãnh đạo Phật Giáo trong cuộc tranh đấu, thường xuyên di chuyển địa điểm họp mật để đặt kế hoạch đấu tranh. Đến ngày 9 tháng 6 năm 1963, xuyên qua những lần thảo luận giữa ủy ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo và Ủy ban Liên Bộ của chính quyền Ngô Đình Diệm không đi đến thỏa thuận. Trái lại chính quyền Diệm vẫn gia tăng các cuộc khủng bố, đàn áp Tăng, Ni và Phật Tử. Trong tình hình đó nếu cứ kéo dài các cuộc đấu tranh bình thường như từ trước đến nay thì dần dần sẽ bị tan rã vì thiếu hình thức khác lạ để có thể gây xúc động lương tâm con người. Nên quí ngài lãnh đạo Liên Phái Phật Giáo lúc đó phải chấp nhận hạnh nguyện xin được tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức.

Ngảy 11 tháng 6 năm 1963 (nhằm ngày 20 tháng 4 năm Quí Mão), tại ngã tư Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt Saigon, - (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám và Nguyễn Đình Chiểu TP HCM)-, Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã anh dũng tự thiêu, trước hàng ngàn các Tăng, Ni và Phật Tử đứng gần đó để cầu nguyện, cùng hàng trăm các phóng viên ngoại quốc đứng gần, xa và trên các tòa nhà cao tầng để chứng kiến và thực hiện các phóng sự rồi tìm cách lén lút đưa ra nước ngoài phổ biến. Lực lương an ninh của Diệm được điều động đến để trấn áp và phá hoại cuộc tự thiêu nhưng đều thất bại, vì các Tăng, Ni và Phật Tử quyết bảo vệ bằng cách bao vây thành nhiều vòng trong tiếng niệm Phật ngân vang cả một bầu trời, có người nằm ngăn cản trước bánh xe cứu hỏa, xe tăng của lực lượng cảnh sát.

Chiều ngày 11-6-63, chính quyền Diệm ra lệnh phong tỏa các chùa, nhất là chùa Xá Lợi, nơi quàng nhục thân cố Hòa Thượng Thích Quảng Đức. Khắp các nẻo đường dẫn về Chùa Xá Lợi, cảnh sát được điều động đến để ngăn chặn làn sóng người đang đổ dồn về chùa Xá Lợi. Tối hôm đó Ngô Đình Diệm đọc bài diễn văn trên đài phát thanh Saigon, lên án vụ tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức và nói “..do một số người đầu độc gây án mạng” và kêu gọi đồng bào hay nhận định tình thế” lời lẽ qua thông điệp đã bộc lộ sự độc tài khi tuyên bố “sau hiến pháp còn có tôi” cái tôi đã có thẩm quyền hơn cả hiến pháp. Tiếp theo là một lời tuyên bố nảy lửa của bà cố vấn Ngô Đình Nhu là “Một nhóm người đã nhẫn tâm mang nướng một Ông thầy tu” thật là ghê tởm, khi mọi người nghe được điều này đã phẫn uất tột cùng.


Ảnh hưởng và âm vang về cái chết Vô Úy của Bồ Tát Thích Quảng Đức.

Sự hy sinh phi thường, dũng cảm của HT Thích Quảng Đức với hình ảnh ngài ngồi yên tư thế tọạ thiền trong ngọn lửa hồng đã như làn sóng điện cực mạnh lan khắp trong nước và thế giới, hàng triệu trái tim con người quàn thắt trước sự hy sinh cao cả của Ngài. Báo chí, truyền thanh, truyền hình đã loan truyền các tin tức và hình ảnh của Ngài đang ngồi kiết già trong ngọn lửa rực cháy với những lời ngợi ca khâm phục trên khắp năm châu. “Đây là một gương Đại Hùng Đại Lực, tinh tiến bất chuyển mà chúng ta thường nghe nói. Sự hy sinh cao cả của Ngài là một tiếng chuông gọi đàn cho hàng tứ chúng.” Và cũng là ngọn đuốc soi sáng lương tri những kẻ vô minh”, đồng thời đã tiếp thêm sức mạnh lạ thường cho hàng triệu người ở miền Nam, miền Trung sôi sục vùng lên bất chấp cường quyền, bạo lực đã cùng nhau hiên ngang xuống đường đấu tranh chống bạo tàn của chế độ Ngô Đình Diệm.

Ngày 12/6 tại Hoa Thịnh Đốn, đã đón nghe một cách xúc động cuộc đấu tranh của Phật Giáo Việt Nam. và tờ New York Herald Tribune đã viết ..”Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã biến tấm áo Cà Sa với tấm thân tứ đại làm một giàn hỏa thiêu cả một chế độ kỳ thị tôn giáo”. Tổng thống Ngô Đình Diệm tại miền Nam Việt Nam đang làm một việc rất hay là Ông đang tự đốt hết nền tảng của chế độ Ông.

Mục Sư Donakds Harring Ton (Mỹ) đánh giá cái chết của Hòa Thượng Thích Quảng Đức giống như cái chết của Chúa Giê-Su, Michqel Servetus, Jeanne d’Are cho rằng cái chết của HT Quảng Đức cao cả hơn hành động mổ bụng của người Nhật. Vì “sự tự thiêu của Ngài đã cứu vớt bao sinh linh chìm đám trong khổ hận, kẻ đàn áp cũng như những người bị đàn áp đều bừng tỉnh. Ngài đã tô đậm nét vàng son vào trang sử huy hoàng của Phật Giáo ở Việt Nam”.Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc rúng động trước chính sách kỳ thị tôn giáo tại miền Nam Việt Nam, dư luận Mỹ quay sang chống Diệm và gia đình trị của Ông ta.

TRÁI TIM BẤT DIỆT.

Sau khi ngọn lửa bọc quanh thi hài Hòa Thượng Thích Quảng Đức vừa tàn. Tăng, Ni vây quanh Ngài và phủ lên một lá Phật kỳ. Nhục thân của Ngài được đưa về quàng tại giảng đường Chùa Xá Lợi. Sau lễ nhập kim quan, hàng ngàn Tăng, Ni và Phật Tử ngày đêm tụ tập về Chùa Xá Lợi để cầu nguyện và canh phòng chính quyền Diệm cướp mất thi hài của Ngài. Đến ngày 20 tháng 6 năm 1963, Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo và nhiều Tăng, Ni, Phật tử đưa nhục thân Ngài đi hỏa táng tại An Dưỡng địa Phú Lâm.

Sau 24 tiếng đồng hồ đốt trong lò với sức nóng 4000o C, Kim quan và nhục thân Ngài đã biến thành tro bụi, nhưng một kỳ tích ngoài tưởng tượng của mọi người, đó là quả tim của Ngài vẫn còn nguyên vẹn, lúc đầu ở trạng thái mềm và sau dần dần cứng như sắt. Đúng như tâm nguyện của Ngài trước Tam Bảo khi phát nguyện tự thiêu “Xin thân này làm đuốc cảnh tỉnh chế độ Ngô Đình Diệm và xin cho trái tim này được tồn tại mãi”.

Thượng Tọa Thích Thông Bửu Trụ Trì Chùa Quan Thế Âm là nơi Hòa Thượng Thích Quảng Đức trú sứ, và Thầy Thông Bửu cũng là trưởng tử của HT Thích Quảng Đức đã nói chuyện lại rằng : …. . . Sau đó Tăng, Ni đã đem hài cốt và Trái Tim Bất Diệt của HT về Chùa Xá Lợi…... Khi biết được trái tim không cháy, chính quyền Ngô Đình Diệm luôn gây sức ép căng thẳng với Phật Giáo lúc bấy giờ đểu nhằm mục đích chiếm đoạt lại hoặc phá hủy “Trái Tim Bất Diệt “ này. Ủy ban Liên Phái Phật Giáo biết được ý đồ đó đã họp và quyết định thay thế trái tim thật thành trái tim giả.

Ngày 28 tháng 6 năm 1963, Chính quyền Diệm mở một cuộc tấn công và đàn áp vào chùa Xá Lợi để chiếm đoạt trái tim. Họ cũng lầy được trái tim, nhưng trái tim đó là trái tim giả, còn trái tim thật đã được niêm phong cất vào tủ sắt và bí mật cất vào một ngân hàng lưu giữ.

CẢM NGHĨ VÀ KẾT LUẬN.

Hôm nay nhân kỷ niệm 42 năm về sự hy sinh cao cả và tuyệt vời của Bồ Tát Thích Quảng Đức, với tư cách là một phật tử, đã trải qua ba thời kỳ chinh chiến tại quê nhà đó là thời Nhật, thời Pháp và thời Mỹ biết bao thăng trầm, với tuổi đời 77 (song thất). Theo tôi đất nước thời chiến có những nhu cần đạo đức, văn hóa thời chiến. Đất nước thời bình có những nhu cầu đạo đức, văn hóa thời bình. Tâm nguyện chung của những người phật tử trong nước cũng như hải ngoại. Trong thời bình là đào tạo Tăng tài, trẻ trung hóa nhận sự, lãnh đạo xã hội, hiện đại hóa phương thức hoằng pháp và quản trị Phật sự, bảo tồn di sản Phật giáo. Tương lai của Phật Giáo sau này còn tồn tại và phát triển là nhờ vào các vị Tăng Tài trẻ tuổi như Thầy Tuệ Sĩ, tục danh là Phạm Văn Thương, Thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Thầy Thích Nhật Từ, Thầy Thích Nguyên Tạng. Thầy Thích Tâm Thiện ...

Người Phật tử Việt Nam bất cứ sống ở đâu dù trong nước hay hải ngoại phải cố gắng vươn lên khỏi những vướng mắc của hội chứng, hòa nhi bất đồng, đồng nhi bất hòa, hãy vượt qua khỏi những định chế, hình thức để hòa nhập với ước vọng và quyết tâm củng cố tự lực, tự cường và tự tin. Nếu cứ sa lầy vào những bận tâm chấp tánh, chấp tướng, tham danh, tham lợi, thì Phật Giáo sẽ lệ thuộc vào quyền lực thế tục. Phật giáo càng đi xa con đường phục vụ đạo pháp. Giáo chủ của Phật Giáo là kẻ đã từ bỏ quyền lực thế tục đương nhiên có sẵn trong tay để chứng đắc quyền lực tâm linh và cũng không cầu mong quyền lực thế tục thị thực cho quyền lực tâm linh đó. Đó là bài học Phật tử đã rút tỉa được qua kinh nghiệm đắng cay của tình trạng tiến thối lưỡng nan “Ấn Quang – Quốc Tự”

“Quốc Tự – Ấn Quang” trước năm 1975 và “Phật Giáo Quốc Doanh” – Phật Giáo Quốc Gia –Phật Giáo Thống Nhất”. Hôm nay nhân kỷ niệm năm thứ 42 ngày Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu, con kính cẩn cầu xin quí Ngài, quí chư Tăng, Ni hãy thực thi lục hòa của Đức Thế Tôn, để cùng nhau xây dựng và bảo vệ đạo pháp và dân tộc.

Ở hải ngoại, đặc biệt là tại Mỹ nơi tôi ở hiện nay có khoảng hơn 300 ngàn người Việt cư trú đa số là Phật giáo, quí chư Tăng, Ni cũng khoảng mấy trăm vị, lớn nhỏ khoảng trên 30 ngôi chùa và tự viện. Thế mà chỉ có một lần tổ chức tại chùa Phật giáo Việt Nam ở Orange County do TT Thích Pháp Châu làm trưởng ban tổ chức và dưới sự chứng minh của HT Thích Mẫn Giác với gần 2 chục vị Tăng, Ni và trên 500 đồng bào phật tử tham dự. Đó là ngày 20 tháng 6 năm 1999. Ban tổ chức chúng tôi lấy tên là “LỄ TƯỞNG NIỆM BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC VÀ CÁC VỊ TIỀN BỐI HỮU CÔNG”. Giáo Sư Trần Văn Chi đã đọc bài diễn văn khai mạc, tiếp theo là các bài tham luận của các vị khoa bảng, trí thức và nhân sĩ Phật Giáo. Gồm có Thạc sĩ Nguyễn Cao Hách, GS Phạm Nam Sách, GS Nguyễn Khắc Hoạch cựu khoa trưởng đại học văn khoa Saigon, BS Nguyễn Tường Bách, BS Tôn Thất Niệm, nhân sĩ Phật giáo Trần Văn Kha v.v.

Sau buổi lễ Cư Sĩ Nguyễn Đức Can đã thay mặt ban tổ chức cám ơn qui Chư Tôn Đức Tăng, Ni và quan khách cùng quí Phật tử và mời quí vị hiện diện xuống tầng dưới xem khu triển lãm do các họa sĩ, Nguyễn Đồng, Nguyễn Thị Hơp, Khánh Trường, Nguyên Khai, Nguyễn Văn Trung, Lương văn Tỷ trưng bày. . . và thọ trai. Tôi đã viết bài phóng sự về lễ tưởng niệm Bồ Tát Thích Quảng Đức có phổ biến trên các báo chí, Internet và có in trong cuốn sách “Trở Về Cội Nguồn” phần phụ lục, do nhà Văn Nghệ phát hành năm 2000, nếu muốn biết đầy đủ hơn xin mở trang nhà trong website : www.thuvienhoasen.orgbấm vào chữ Index (tác giả và dịch giả) ra họ tên của tôi, bấm tiếp vào chữ Nguyễn Đức Can sẽ ra các tác phẩm và bài viết của tôi.

Trên đây tôi chỉ sơ lược qua một số lịch sử diễn tiến trong cuộc tranh đấu của Phật Giáo đòi được bình đẳng truyền đạo như Thiên Chúa Giáo mà đỉnh cao là sự tự thiêu của Bồ Tát Thích Quảng Đức với trái tim bất diệt, trong mùa Phật Đản 1963, phật lịch 2507. Tất nhiên trong phạm vi nhỏ hẹp của một bài viết này không thể diễn tả hết được, nhưng người viết cũng hy vọng đóng góp một phần nào trong lịch sử với cảm nghĩ của mình, để độc giả tùy nghi phán xét./.

Cư Sĩ NGUYỄN ĐỨC CAN
E-Mail : [email protected]

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 8031)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 8127)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 4971)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37288)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6167)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6121)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5763)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5648)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5929)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5462)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]