Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Điếu Văn Của Đệ Tử Đã Ra Đời - Hạnh Pháp

28/09/201010:35(Xem: 6472)
Điếu Văn Của Đệ Tử Đã Ra Đời - Hạnh Pháp

Điếu Văn

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Vĩnh Đức Đường Thượng Từ Lâm Tế Gia Phổ Tứ Thập Nhứt Thế, Húy Như Hảo, Tự Giải Tâm, Hiệu An Đức, Pháp Hiệu Quảng Tâm, Lê Công Hòa Thượng Bổn Sư Tân Viên Tịch Giác Linh

Ngưỡng Bạch Giác Linh Thầy!

Xin cho chúng con được gọi lại tiếng Thầy, một tiếng Thầy ấm áp những niềm thương, những niềm hiếu kính. Tiếng Thầy thân thương nhất đã in đậm trong lòng mỗi người đệ tử chúng con.

Bạch Thầy!

Dẫu biết: sinh như trước sam – tử như thoát khố

Vẫn biết: duyên sinh như huyễn.

Nhưng Thầy ơi! Sao chúng con vẫn thấy lòng như thắt lại.

Muốn nuốt lệ vào tim để khỏi phụ lời Thầy di huấn, nhưng sao mắt vẫn cay nhòe.

Dằn cảm xúc vào trong để cho Thầy thanh thản ra đi, nhưng sao lòng con rúng động.

Bạch Thầy! Nhớ khi xưa:

Dưới mái lá đơn sơ, nhìn những đứa con bốn phương quay quần cùng sẻ chia ấm lạnh, Thầy bất chợt mãn nguyện mĩm cười.

Bên vách chùa ẩm đất, thấy đàn con mình vui vẻ mặc dầu bữa khổ bữa kham, Thầy vô tình để rơi giọt lệ.

Giờ chúng con thèm được Thầy “xố” bợp tai khi quấy quá vô tâm, chắc vĩnh viễn chỉ là ký ức.

Thèm nghe tiếng mộc trượng khua tỉnh lòng con khờ còn tuổi ăn tuổi ngủ, nhưng rồi sẽ chỉ có hư vô.

Thầy ơi! Xin cho con được làm kẻ phàm phu bất ngộ chấp mê, gọi hai tiếng Thầy ơi cho vơi bớt nỗi xúc động dâng trào, kìm nén một từ cha nghe lòng thêm thương cảm.

Kính lễ Thầy! Vị Bổn sư chân kỉnh.

Kính lạy cha! Người cha già dấu yêu.

Nụ cười đã tắt trên môi thắm

Hình bóng Ân sư giờ nơi đâu

Dép cỏ lối mòn còn in đậm

In cả tim con một lối sầu.

Ngưỡng bạch Giác linh Thầy! Chúng con thiếu duyên nuối tiếc quảng đời đạo hạnh, phụ công lao Thầy chua xót 1 kiếp bôn ba.

Nhưng cũng nhờ: thuở còn thơ Thầy dạy bảo tận tình, chữ đức chữ nhân chữ ân chữ nghĩa. Ngày khôn lớn học nơi Thầy những hạnh, từ bi bác ái vô ngã vị tha.

Nên ngày nay chúng con: cố gắng nên người đoàn kết lại để thể hiện phương châm tốt đạo đẹp đời, noi theo hạnh Thầy chung tay góp sức để phục vụ chúng sanh, xã hội.

Hầu báo đền thâm ân muôn một

Bái tạ sơ duyên ngộ chân sư

Ngưỡng mong giác linh Thầy:

1 bát 1 y thương chúng sanh xuôi chiếc thuyền từ

1 pháp 1 duyên vì đại nguyện chu du pháp giới.

Các huynh đệ chúng con: dẫu tục hay Tăng vẫn là con của Thầy, những đứa con đã cùng chung vui dưới bóng cả từ bi của Thầy, giờ đây chung sức lại để nối tiếp hạnh nguyện của Thầy, cúi xin Thầy ở nơi xa xôi ấy vì chúng con mà từ bi gia hộ.

Thiền thất đăng thâu diệm

Kinh song nguyệt ảnh lung

Nhất triêu hề chích lý

Thiên tải mích vô tung

Ngưỡng bạch Thầy!

Giờ nuối tiếc thì cũng đã muộn rồi

Thân tứ đại phải hoàn ư tứ đại.

Đối vô thường mạc nhiên không chống trái

Thầy ra đi trong thể thái an nhiên.

Ngưỡng bạch giác linh Thầy!

Ngay giờ phút này đây, chúng con đối trước Thầy thành tâm cầu nguyện. Ngưỡng nguyện Bổn sư vô lượng thọ, Quan âm Thế chí thánh hiền Tăng, đồng triễn oai quang phổ chiếu lâm, tiếp dẫn giác linh quy bổn quốc.

Vẫn nhớ rằng:

Sinh nhi bất sinh, Thích tôn thượng Song lâm thị tịch.

Diệt nhiên bất diệt, Đạt Ma tằng chích lý Tây qui.

Nguyện Giác linh Thầy!

Vị chúng sinh bất ngộ chấp mê

Lai đáo ta bà hoằng đại nguyện

Kính đãnh lễ ân đức của Thầy

Nguyện Bổn sư thùy từ nhã giám

Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật

Nam Mô Vĩnh Đức Đường Thượng Từ Lâm Tế Chúc Thánh Tứ Thập Nhứt Thế Húy Như Hảo Tự Giải Tâm Hiệu An Đức Thích Quảng Tâm Đạo Hiệu Lê Công Hòa Thượng Bổn Sư Tân Viên Tịch Giác Linh.

Chúng đệ tử khuyết duyên kính bái

Hạnh Pháp

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 8087)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 8174)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 5120)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37407)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6223)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6179)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5812)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5696)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5978)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5513)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]