Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Muốn biết Hòa Thượng Thích Trí Quang

17/12/201511:37(Xem: 19559)
Muốn biết Hòa Thượng Thích Trí Quang

HT_Thich_Tri_Quang
Muốn biết Hòa Thượng Thích Trí Quang

I.- Phương pháp chung chung.

Người Việt Nam ai cũng biết Hòa thượng Trí Quang cả, nhưng muốn biết rõ ngài thế nào thì quả thật khó lòng lắm ngoại trừ có hoàn cảnh sống gần ngài. Tuy vậy mấy ai mà hiểu được ai, kể cả cha mẹ con cái trong gia đình đoàn tụ có hiểu rõ nhau chưa ?. Mỗi người một ý tùy trường hợp, tùy nhận thức, tùy tình cảm mà tự có một nhận xét chung chung.

Ví dụ để giúp đồng bào hiểu thêm về Hòa thượng Trí Quang, ngoài các website có thành kiến, tôi đề nghị dùng website của Wikipedia: tiếng Anh với luận sử gia có tiếng tăm quốc tế: Langguth, A. J. (2000). Our Vietnam. Simon and Schuster. Our Vietnam The War 1954-1975   Ông này có những thành tích như sau :

“Winner of the Overseas Press Club's Cornelius J. Ryan Award for Best Nonfiction Book, the Commonwealth Club of California's Gold Medal for Nonfiction, and the PENCenter West Award for Best Research Nonfiction.

Twenty-five years after the end of the Vietnam War, historian and journalist A. J. Langguth delivers an authoritative account of the war based on official documents not available earlier and on new reporting from both the American and Vietnamese perspectives. In Our Vietnam, Langguth takes us inside the waffling and deceitful White Houses of Kennedy, Johnson, and Nixon; documents the ineptness and corruption of our South Vietnamese allies; and recounts the bravery of soldiers on both sides of the war. With its broad sweep and kee”.

http://en.wikipedia.org/wiki/Thich_Tri_Quang/   

Trích :  “Thích Trí Quang (born 1924) is a Vietnamese Mahayana Buddhist monk best known for his role in leading South Vietnam’s Buddhist majority during the Buddhist crisis in 1963.

His campaign, in which he exhorted followers to emulate the example of Mahatma Gandhi, saw widespread demonstrations against the Catholic government of President Ngo Dinh Diem, and its pro-Catholic and Anti-Buddhist policies, attributed to the influence of Diem’s elder brother Archibishop Ngo Dinh Thuc of Hue. Diem’s often violent suppression of the demonstrations lead to widespread dismay among the populace, and resulted in a military coup in November 1963 that removed Diem and his family from power.

In his early days, Thich Tri Quang went to Ceylon to further his Buddhist studies. When he returned, he participated in anti-French activities, calling for the independence of Vietnam.

In 1963, Vesak, the birthday of Gautama Buddha fell on May 8. The Buddhists of Hue had prepared celebrations for the occasion including the display of the Buddhist flag. The government cited a rarely enforced regulation prohibiting the display of religious flags, banning it. This occurred despite the non-enforcement of the regulation on a Catholic event celebrating the fifth anniversary of Ngo Dinh Thuc as Archbishop of Hue less than a month earlier. The Buddhists defied the ban and held a demonstration, and congregated at the radio station expecting to hear an address by Thich Tri Quang, as was routine for such a day. The authorities cancelled the speech and opened fire on the crowd, killing nine.

On May 10, Buddhist campaigns for religious equality, compensation for the victims, punishment for those responsible, and the right to fly the Buddhist flag. Thich Tri Quang urged the demonstrators to not allow Vietcong to exploit the unrest, and exhorted a strategy of passive resistance. As the crisis deepened, he travelled to the capital Saigon for negotiations and further protests after the self immolation of Thich Quang Duc on June 11. Prior to the August 21 raids on the Xa Loi Pagoda by Ngo Dinh Nhu’s secret police and special forces, he sought refuge at the US Embassy, Saigon. He was accepted by the US ambassador Henry Cabot Lodge, who refused to hand him to Nhu’s forces after they had ransacked the pagodas, fired on and beat monks. In Hue, thirty people died as they attempted to blockade the pagodas from Nhu's men.

Following the coup on November 1, 1963 which removed Diem and Nhu from powerit was reported that the military junta wanted Thich Tri Quang to be a part of the new cabinet, but the US State Department recommended against this.

After the 1964 coup by General Nguyen Khanh which deposed the Duong Van Minh junta, Khanh had Captain Nguyen Van Nhung, the bodyguard of Minh and executioner of Diem and Nhu executed. This generated rumours that pro-Diem politicians would be restored to power and prompted Thich Tri Quang to cancel a planned pilgrimage to India in order to organise further demonstrations. In late 1964, Khanh revoked his decision to put the General lead by Tran Van Don from detention in Da Lat.

In 1965, demonstrations occurred again when anti-Diem General Nguyen Chanh Thi, the commander of central Vietnam, was stripped of his position by Prime Minister Nguyen Cao Ky. This time Ky had Thich Tri Quang arrested and put him under house arrest inSaigon. When the communists overran South Vietnam in the Fall of Saigon, Thich Tri Quang was again put under house arrest.

Nhưng Website ấy bị tên PMThuong không dịch mà thay thế bằng một bài Việt ngữ đem vụ Biến Động Miền Trung của Liên Thành ra quảng cáo  

Trích “Khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập, Thượng tọa Trí Quang là Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống, trong khi Thượng tọa Thích Tâm Châu là Viện trưởng Viện Hóa Đạo.

Năm 1963, tại miền Nam Việt Nam, suốt thời kỳ Phật Giáo Việt Nam thống nhất (Phật giáo Ấn Quang) tạo ra biến động miền TrungThượng Tọa Thích Trí Quang là nhà lãnh đạo Phật Giáo được báo chí quốc tế nhắc nhở tới nhiều nhất. Khi Chùa Xá Lợi bị tấn công, tăng ni bị bắt, việc Thượng tọa Trí Quang vượt khỏi hàng rào nhà tù vào lánh nạn trong Tòa Đại Sứ Mỹ tại Saigon từng được coi là một bí ẩn, mọi chi tiết chưa từng được kể lại. Tuần báo Time đã đăng hình Thượng Tọa với lời ghi chú "Người làm rung rinh nước Mỹ". . .

Từ sau 1975 cho tới nay, Thượng tọa Trí Quang vẫn sống yên lặng tại Saigon, hiện tĩnh tu tại chùa Già Lam. Bên cạnh việc san dịch kinh sách, vị Thượng Tọa năm xưa - nay đã là một Hòa Thượng - đang hoàn tất một hồi ký đặc biệt về cuộc vận động của Phật Giáo Việt Nam. PMThuong”

http://vi.wikipedia.org/w/index.php? itle=PMThuong&action=edit&redlink=1



thichtriquang-7

II.- Phương pháp cá biệt

Hòa Thượng Thích Trí Quang như tôi biết

Tôi hạn chế phương pháp cá biệt này vào giai đoạn sau 1955.

Ngày 9 tháng 3 năm 1955 tôi về VN do lời gọi của thân sinh về giúp cụ Diệm ở Nha Công Chánh Cao Nguyên. Tôi biết tiếng Hòa thượng Trí Quang kể từ khi gặp Hòa thượng Thích Trí Thủ năm 1956 tại Cao Nguyên và Trung Nguyên Trung Phần.

Sau tháng 2-1962 tôi về phục vụ Khu Công chánh Huế và Nha Thương Cảng Đà Nẳng, giúp chánh kỷ sư Phan Văn Cơ nên thường gặp Chư tôn Hòa Thượng tại đây như  quý Ngài Đôn Hậu, Trí Thủ, Trí Quang, Thiện Siêu, Thanh Trí,  v. . v. . . Năm 1964 Tướng Nguyễn Khánh lập chính phủ dân sự với Quốc Trưởng là Phan Khắc Sửu thay thế Ông Trần Văn Hương. Nhưng Tướng Khánh phân vân  giữa ông Trần Văn Tuyên và ông Phan Huy Quát thì nên chọn ai làm Thủ tướng ?. Tướng Nguyễn Khánh thường tháp tùng  Tổng Thống lên Cao Nguyên xem xét địa hình địa thế để lập Khu dinh điền, Tỉnh Quận  và sân bay chiến lược, v. .v. . . Tôi đại diện công chánh phải có mặt nên gặp quen biết Tướng Khánh từ đấy cho đến ngày ông chọn Thủ Tướng lập chính phủ với Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Tháng Tư năm 1964 Tướng Khánh mời tôi lên phi trường Đà Nẳng để nhờ tôi ra Huế tiếp xúc với Hòa thượng Trí Quang để xin Ngài cho biết nên chọn ông nào làm Thủ Tướng, ông nào Phó. Phương tiện đi về nội nhật bằng trực thăng. Vì có báo trước nên Hòa thượng Trí Quang gặp tôi ngay và cho ý kiến :  “Hai vị đều xứng đáng cả nhưng tôi đề nghị ông Phan Huy Quát làm Thủ Tướng tốt hơn vì ông là Lãnh tụ Chi Nhánh Việt Nam trong Liên Minh Á Châu Chống Cộng. Ngoài ra tôi có lần gặp ông và thấy ông ăn nói tôn kính, mạch lạc”. Năm 1965 Tướng Khánh bị Tướng Kỳ lật lọng cho ra khỏi Việt Nam Cộng Hòa với chức vụ MA không lương, gọi là Đại sứ lưu động. Dầu sao Tướng Khánh trước đó cũng đã ra lệnh cho Giáo sư Bùi Tường Huân Tổng Trưởng Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa và ký Nghị Định số 1805-NĐ/PG/ NĐ ngày 17 tháng 10 năm 1964 thành lập Viện Đại Học Vạn Hạnh mà tôi là Phó Viện Trưởng Phát Triển Kế Hoạch. Ông Nghiêm Xuân Hồng, Bộ Trưởng tại Phủ Thủ Tướng giúp đỡ thủ tục.

Tiếp theo, Tướng láu cá Nguyễn Cao Kỳ Ủy viên Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương tổ chức tiệc chay trong căn cứ Tân Sơn Nhất mời Hòa thượng Trí Quang đến chủ tọa. Tiếp theo, Ủy Viên Bùi Diễm được lệnh gởi hai triệu đồng nhờ Tỉnh hội Phật Giáo Thừa Thiên - Huế giao lại cho các gia đình có con em tử nạn tại đài Thông Tin Huế.

Hòa thượng Trí Quang không mấy khi tới thăm cơ sở Vạn Hạnh trước mặt chợ Trương Minh Giảng, ồn ào đông đúc người . Một hôm tôi rủ vài người trong tòa sọan Tập San Tư Tưởng gồm Thầy Tuệ Sỹ, Thầy Nguyên Tánh (tức GS Phạm Công Thiện) và Thầy Chơn Hạnh đến thăm Hòa thượng Trí Quang đang ngồi dịch kinh Địa Tạng. Hòa thượng Trí Quang là nhân vật sống cô đơn. không thích tiếp phàm phu cư sĩ, ngoại trừ Kỹ Sư Nguyễn Dương (tức Thi Sĩ Duy Xuyên hiện ở Huston) và Nhà Văn Nguyễn Hoạt (tức Hiếu Chân báo Tự Do bị Việt Cộng bắt giam năm 1984 và chết năm 1985).  Hòa thượng Trí Quang thích yên lặng nhưng khi chúng tôi bất ngờ đến quấy rầy, lại mừng ra mặt. Hòa thượng hỏi ngay :  “Nghe nói Thầy Mẫn Giác đem mấy chú tiểu Vạn Hanh sang phá Thầy Tâm Châu bên Viện Hóa Đạo rồi bị võ sĩ môn đệ thầy Tâm Giác ở Vĩnh Nghiêm  đuổi về phải không ?”

Tôi đáp : “Đó là hiểu lầm thôi và thầy Mẫn Giác về ngay đại học Vạn Hạnh không sao cả”. Thầy Tuệ Sỹ, là chỗ bà con nên tự ý lấy bản thảo Hòa thượng đang dịch Kinh Địa Tạng ra xem và phê bìnhi :  Hòa thượng dịch sai những chỗ này nọ. Hòa thượng tuy bực mình nhưng phục thiện sửa đổi ngay. Tài ba của thầy Tuệ sỹ như thế nào ai cũng công nhận, ngay như ông Đào Duy Anh khi ghé thăm Hòa thượng Trí Thủ ở Tu Viện Hải Đức Nha Trang, gặp thầy Tuệ Sỹ cũng tán thán sở học Hán tự và Phật ngữ của vị tỳ kheo trán rộng mắt to này.

Kể từ 1975 đến nay Hòa thượng Trí Quang tiếp tục cô đơn, im lặng, dịch Kinh và sáng tác dài dài, xin xem link :


http://quangduc.com/author/post/1437/1/ht-thich-tri-quang

Trong khi đó Tướng Nguyễn Cao Kỳ viết sách Con Cầu Tự (Bouddha Child) trở Cờ sống kiếp Kỳ Nhông làm tay sai cho Việt Cộng

http://www.vietnamexodus.org/vne/modules.php?name=News&file=article&sid=2288

Tâm Tràng Ngô Trọng Anh

 

Ý kiến bạn đọc
12/07/201723:45
Khách
Chính thể thối nát hèn hạ ,những kẻ hèn hạ ăn từng xu welfare của dân Mỹ đã từng bàn định để lập một Nguyên Thủ Quốc Gia VNCH , không có gì ngạc nhiên cho chiến thắng 1975 của Bắc Việt , lũ mọt dân này trời đã diệt hết chưa nhỉ ?
10/07/201705:57
Khách
Chúa ghét lũ phản động, mượn danh Phật giáo bôi nhọ thanh danh Đất nước, Dân tộc, giờ thì đã hiểu tại sao trang QuangDuc.CoM lại bị chặn, vì chúng mày toàn tuyên truyền nhảm chống Cộng cực đoan...
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 8997)
Hòa thượng Khánh Hòa thế danh Lê Khánh Hòa, Pháp danh Như Trí, pháp hiệu Khánh Hòa, sinh năm Mậu Thân (1877) tại làng Phú Lễ, tổng Bảo Trị, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
09/04/2013(Xem: 7578)
Hòa thượng Thích Hưng Từ, thế danh Bùi Vạn Anh, sinh ngày mùng 1 tháng 8 năm Tân Hợi ( 1911 ) tại làng Bình Hòa, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ngài sinh trong một gia đình có truyền thống đạo Phật. Thân phụ là cụ Bùi Thế Vĩ, pháp danh Như chơn, thân mẫu là cụ bà Võ Thị Biểu, pháp danh là Thị Bửu. Từ nhỏ Ngài được song thân giáo dục trong tinh thần từ bi và chan chứa đức hỷ xả của Phật, nên Ngài sớm mộ cửa Thiền.
09/04/2013(Xem: 7066)
Hòa thượng Huệ Quang, thế danh Nguyễn Văn Ân sing năm 1888 tại Ô Môn, tỉnh Cần Thơ, sau theo mẹ về Trà Vinh. Năm 1902,Ngài xin xuất gia vào chùa Long Thành ở Trà Cú được Hòa thượng Thiện Trí mến thương đặt danh pháp là Thiện Hải. Ngoài giờ học Phật pháp, Ngài lại được Hòa thượng cho học thêm y học.
09/04/2013(Xem: 7165)
Hòa thượng Thích Phúc Hộ, thế danh là Huỳnh Văn Nghĩa, sinh ngày 24 tháng 7 năm Giáp Thìn (1904) đời vua Thành Thái năm thứ 16 tại làng Triều Sơn, xã Xuân Thọ, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Song thân của Ngài là cụ ông Huỳnh Trung và cụ bà Trần Thị Nho.
09/04/2013(Xem: 8015)
Chùa Thập Tháp là một trong số các ngôi tổ đình nổi tiếng của đất Bình Định Nếu như ở thời kỳ khởi đầu, ngôi tổ đình ấy được chú ý nhiều vì vị khai sơn là Thiền sư Nguyên Thiều - người có công lớn trong sứ mạng truyền bá Phật giáo ở Đàng Trong thời Nam Bắc phân tranh, hậu bán thế kỷ 17 ; thì vào thời hiện đại, tổ đình Thập Tháp được cả nước biết đến vì sự có mặt của Quốc sư Phước Huệ (1869-1945).
09/04/2013(Xem: 8158)
Ngài đã nêu cao tinh thần Bi, Trí, Dũng phục vụ chúng sinh, cống hiến trọn vẹn đời mình cho sự nghiệp chung của đạo pháp và dân tộc Việt Nam. Hòa thượng Thích Trừng San, pháp tự Minh Hiền, hiệu Hải Tuệ, thế danh Nguyễn San sau đổi là Trần Văn Lâu, nối pháp đời thứ 42 dòng Lâm Tế Liễu Quán. Ngài sinh năm Nhâm Tuất (1922), tại thôn Phú Khánh, xã Diên Thạnh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Năm lên 8 tuổi, được song thân cho xuất gia học đạo với Hòa thượng Phổ Hiện, tại chùa Khánh Long, Diên Khánh. Sau khi Bổn sư viên tịch, Ngài y chỉ với Hòa thượng Chánh Ký, kế vị trụ trì chùa Khánh Long. Năm 1943 được y chỉ sư gửi đến thọ giáo với Hòa thượng Bích Không, trụ trì chùa Hải Đức (Nha Trang).
09/04/2013(Xem: 10450)
Hòa thượng Giới Nghiêm thế danh là Nguyễn Đình Trấn, sinh ngày 5 tháng 5 năm 1921, tại làng Gia Lê Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Phú, tỉnh Thừa Thiên - Huế. ngài xuất thân trong một gia đình gồm ba anh em, có tinh thần yêu nước và có truyền thống đạo đức lâu đời. Ông nội là bậc xuất gia, cha là Hòa Thượng Quang Diệu, chú cũng xuất gia, bác là Hòa thượng Phước Duyên.
09/04/2013(Xem: 6835)
Hòa thượng pháp danh Thị An, pháp tự Hành Trụ, pháp hiệu Phước Bình, thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 42. Ngài thế danh là Lê An, sinh năm 1904 trong một gia đình trung nông tại làng Phương Lưu, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Thân phụ là cụ Lê Uyển, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Sử. Ông Bà có bốn người con, cả ba người con trai đều xuất gia đầu Phật.
09/04/2013(Xem: 11594)
Hòa thượng pháp hiệu Thích-Thiện-Hòa, thế danh Hứa-Khắc-Lợi sanh năm 1907 tại làng Tân-Nhựt Chợ Lớn. Ngài sinh trong gia đình trung lưu phúc hậu, thân phụ là Hứa-hắc-Tài, thân mẫu là Nguyễn-Thị-Giáp. Gia đình cả thảy bảy anh em : ba nam, bốn nữ, Ngài là người thứ bảy. Vì người thứ tám mất sớm nên Ngài được coi là con út.
09/04/2013(Xem: 6343)
Hòa thượng pháp danh Trí Độ, hiệu Hồng Chân, thế danh Lê Kim Ba, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1894 tại thôn Phổ Trạch, xã Kỳ Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Sinh ra trong một gia đình Nho học, lúc thiếu thời Ngài học chữ Nho và năm 18 tuổi học trường Sư phạm. Vì thế mà sở học rất uyên thâm, thêm lòng mến mộ đạo Phật, Ngài đi sâu vào nghiên cứu giáo lý và trở thành một vị học Phật lỗi lạc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]