Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

HT Thích Trí Thủ một đời vì Đạo Pháp & Dân Tộc

05/04/201102:38(Xem: 6087)
HT Thích Trí Thủ một đời vì Đạo Pháp & Dân Tộc
HT_Tri_Thu_3

MỘT ĐỜI VÌ ĐẠO PHÁP VÀ DÂN TỘC
(*)
Thích Giác Toàn

Từ vùng đất địa linh nhân kiệt, chúa Nguyễn Hoàng lập nghiệp đầu tiên, Hòa thượng đã thác tích hiện thân đại sĩ, nương thuyền từ độ kẻ trong mê.

Duyên lành sẵn có, tâm Bồ đề sớm phát, tuổi ấu thơ đã thắm nhuần đạo vị, chùa Hải Đức trưởng dưỡng chí xuất trần. Rồi đến độ tâm hoa khai phát, lúc tuổi thanh xuân, nơi chốn Tổ Tra Am, Hòa thượng quyết chí tu hành, cắt ái từ thân, thế phát bẩm sư với Tổ Viên Thành.

Vì lòng khát ngưỡng giáo pháp Đại thừa, khi tuổi vừa tròn đôi mươi, nơi chốn Tổ Từ Vân, Hòa thượng được Bổn sư cho đăng đàn thọ Cụ túc giới.

Kể từ đây giới thể Châu viên, Tam tôn kế vị, Giới đức trang nghiêm, sáng soi như nhựt nguyệt, thanh danh Trí Thủ rạng ngời từ thuở đó.

Với trách nhiệm và bổn phận của Trưởng tử Như Lai, tiền đồ của Phật giáo nước nhà, Hòa thượng là một trong những bậc cao Tăng thạc đức đã tích cực đóng góp trí huệ và công sức trong phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam thời bấy giờ.

Bằng ý nguyện tinh sưu nghĩa lý để kế vãng khai lai, phò trì mạng mạch Tăng già, Hòa thượng đã tinh cần tinh tấn ôn tầm bối diệp tại các Phật học đường nổi tiếng như Thập Tháp, Tây Thiên, Báo Quốc.

Với trình độ Phật học uyên thâm, trí huệ của bậc thạch trụ Tòng lâm, vào thập niên 30, 40, Hòa thượng mở trường Phật học Tây Thiên, Linh Quang, Báo Quốc, Từ Đàm để đào tạo Tăng tài, tiếp dẫn hậu lai, truyền trì Phật pháp, chấn hưng Phật giáo nước nhà cũng như thực hiện phương tiện quyền xảo, từ bi lợi vật, Hòa thượng đã nêu cao gương uy mãnh giữa rừng tà, hoàn thành hạnh nguyện bi trí dũng của người con Phật, sáng danh con nhà họ Thích ngàn đời trong cương vị Hội trưởng Hội Phật giáo Cứu quốc Trung bộ.

Bằng uy đức trang nghiêm, trí huệ bất phàm, vào thập niên 50, với trọng trách Giám viện Phật học Viện Trung phần – Nha Trang, Hòa thượng đã đào tạo được nhiều thế hệ Tăng Ni tài đức, trở thành pháp khí đại thừa, hiện đang phục vụ các cấp Giáo hội từ trung ương đến địa phương trong cả nước, góp phần xây dựng và phát triển Phật giáo Việt Nam qua từng thời đại.

Trong phong trào đấu tranh đòi bình đẳng tôn giáo dưới chế độ Ngô Đình Diệm, nhất là trong mùa pháp nạn 1963 và cho đến ngày thống nhất Tổ quốc, Hòa thượng là một trong những vị cao Tăng tích cực đấu tranh cho sự nghiệp bảo vệ Đạo pháp và độc lập của Dân tộc.

Với tài trí song toàn của bậc Thượng sĩ, Hòa thượng đảm nhận nhiều cương vị trọng yếu như Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hoằng Pháp, Tổng Vụ Trưởng Tài chánh, Viện trưởng Viện Cao Đẳng Phật học Sài Gòn và Viện trưởng Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất.

Đặc biệt, Hòa thượng rất quan tâm đến công tác Hoằng pháp và Hòa thượng đã tổ chức 3 kỳ Đại hội tại Nha Trang, Xá Lợi - Sài Gòn, Ấn Quang - Chợ Lớn nhằm định hướng cho chương trình Hoằng Pháp lợi sinh của Giáo hội.

Tuy Phật sự đa đoan, nhưng Hòa thượng vẫn dành nhiều thời gian để giảng kinh, thuyết pháp, viết sách, dịch Kinh, Luật, Luận. Những tác phẩm trước tác hoặc dịch thuật của Hòa thượng vẫn còn nguyên giá trị, mang tính khế lý, khế cơ, khế thời và khế xứ trong thời đại hội nhập hôm nay.

Trong ý niệm trang nghiêm ngôi Tam bảo tại thế gian, báo Phật ân đức và báo đáp ân giáo dưỡng của Thầy Tổ, Hòa thượng đã nỗ lực trùng tu ngôi Tam bảo Ba-la-mật, Báo Quốc, Tra Am, Linh Quang, kiến tạo Tu viện Quảng Hương – Già Lam trở thành chốn Phạm vũ huy hoàng, xứng đáng là đơn vị tự viện của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam trong hiện tại và tương lai.

Bằng giới đức thanh tịnh, thân giáo, khẩu giáo và ý giáo thâm nghiêm, Hòa thượng là hiện thân của giới luật, là sức sống miên viễn của Phật pháp, là người khai thông giới thân huệ mạng cho hàng ngàn Tăng Ni, Phật tử và Hòa thượng chính là người đầu tiên đã tái lập hình thức truyền giới Tam sư Thất chứng, Tăng Ni nhị bộ.

Qua đó, từng lớp từng đàn giới tử giới thân, giới thể châu viên trang nghiêm dòng diệu thể, trở thành pháp khí Đại thừa, duy trì mạng mạch của Phật pháp, Trưởng tử của Như Lai, Trung tôn trong hàng đại chúng, phúc điền của chúng sinh, làm cho chính pháp cửu trụ thế gian, lợi lạc hữu tình, vẹn tròn nhân Phật, chứng quả Bồ đề vào những kiếp lai sinh trên bước đường giải thoát.

Sau khi hòa bình lập lại (1975), kế thừa hoài bảo thống nhất Phật giáo Việt Nam của các bậc cao Tăng tiền bối, với cương vị Viện trưởng Viện Hóa đạo GHPGVNTN, Hòa thượng là nhân tố tích cực trong sự nghiệp thống nhất Phật giáoViệt Nam, xây dựng thành công ngôi nhà Giáo hội Phật Giáo Việt Nam, mà Hoà thượng là thành viên sáng lập và được toàn thể đại biểu suy cử vào cương vị Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Từ lúc đảm nhận cương vị Chủ tịch Hội đồng Trị sự nhiệm kỳ I cho đến ngày viên tịch (1981 - 1986), Hòa thượng đã không ngừng xây dựng và phát triển, làm cho ngôi nhà Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày càng trang nghiêm và hưng thịnh trong lòng dân tộc, nhất là trong giai đoạn thống nhất Phật giáo Việt Nam đầy gian nan và thử thách.

Như Hòa thượng đã từng tâm sự: “Những gì tôi làm lợi ích cho Đạo pháp tức là lợi ích cho Dân tộc; những điều tôi làm lợi ích cho Dân tộc tức là lợi ích cho Đạo pháp”.

Thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau là những người thừa hưởng sự nghiệp thống nhất Phật giáo Việt Nam ngày nay, là thừa hưởng gia tài quý báu của các hàng giáo phẩm lãnh đạo Giáo hội, mà trong đó Hòa thượng đã đóng góp một phần công đức rất lớn trong sự nghiệp thống nhất Phật giáo Việt Nam, hòa hợp dân tộc, xây dựng hòa bình thống nhất tổ quốc theo phương châm hoạt động của Giáo hội: “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”.

Trong hơn 50 năm phụng sự đạo pháp và dân tộc, Hòa thượng đã thực hiện một cách trọn vẹn các Phật sự bằng những hành động và ý chí của mình. Quả thật: “Hạnh nguyện sáng soi cùng kim cổ, chí cả rạng ngời với sử xanh”.

Ngày nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã và đang phát triển vững mạnh trang nghiêm trong lòng dân tộc, đang chuẩn bị kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1981 - 2011), tuy Hòa thượng không còn nữa để chứng kiến cảnh hưng thịnh phát triển, trang nghiêm của Giáo hội, nhưng những công đức mà Hòa thượng đã đóng góp cho Đạo pháp sẽ mãi mãi còn lưu dấu trong tâm trí Tăng Ni và Phật tử Việt Nam.

Thấm thoát ngày qua tháng lại, kể từ ngày hạt vàng khuất bóng, chùa Già Lam mây ẩn bóng ưu đàm, thuyền Bát nhã xuôi dòng bản thể, dù thời gian có trôi qua, không gian có thay đổi, nhưng công đức và đạo nghiệp của Cố Hòa thượng vẫn còn sống mãi trong tâm tư, trong ký ức của Tăng Ni Phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam và trong trang sử vàng của Phật giáo Việt Nam thời hiện đại.

Hôm nay nhân ngày Lễ húy kỵ lần thứ 27, ngày Cố Hòa thượng trở về thế giới Niết bàn vô tung bất diệt và hiệp kỵ chư Sơn Thiền đức tiền bối hữu công, chư Tôn đức Hội đồng Trị sự GHPGVN, xin thay mặt Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự, Ban Trị sự Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh, Tăng Ni Phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam đốt nén hương lòng kính dâng lên cúng dường Giác linh Hòa thượng và chư Sơn Thiền đức tiền bối hữu công, chư Tôn đức Hội đồng Trị sự GHPGVN.

Ngưỡng mong Pháp thân Hòa thượng từ bi gia hộ cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày càng phát triển trang nghiêm, hưng thịnh, Phật pháp xương minh, tông phong xán lạn huy hoàng, rừng thiền tâm hoa khai phát, pháp âm vĩnh xướng nhân gian và hộ trì cho thế giới Ta bà, vườn hoa xã hội nở hoa bốn mùa.

Đồng thời, chúng tôi xin kính nguyện kề vai sát cánh bên nhau, hòa hợp đoàn kết một lòng, để trang nghiêm ngôi nhà Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày càng phát triển huy hoàng trong lòng dân tộc.

(*) Trích lời Tưởng niệm của GHPGVN do HT Thích Giác Toàn - Phó Chủ tịch HĐTS tuyên đọc tại lễ tưởng niệm lần thứ 27 ngày HT Thích Trí Thủ viên tịch.

thichtrithu_3

HT. Thích Giác Toàn

thichtrithu_2thichtrithu_1

  • Lễ tưởng niệm cố Đại lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ

  • Ngày đăng tin: 04/04/2011

    Lễ tưởng niệm cố Đại lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ - Nguyên Chủ tịch Hội đồng Trị sự nhiệm kỳ I TW GHPGVN và Thành Hội Phật Giáo TP.HCM

  • Sáng ngày 3/4 tại TPHCM, Ban thường trực Hội đồng trị sự Gíao hội Phật giáo Việt Nam đã long trọng tổ chức lễ húy kỵ lần thứ 27 tưởng niệm cố Đại lão hòa thượng Thích Trí Thủ - nguyên Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam nhiệm kỳ I (1981-1987) . Tham dự có Hoà thượng Thích Đức Nghiệp – Phó thư ký Hội Đồng Chứng Minh Trung ương Gíao hội Phật Gíao Việt Nam ; Hoà thượng Thích Thiện Nhơn – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Đồng Trị sự Trung ương Gíao hội Phật giáo Việt Nam ; Chư Tôn đức Hội đồng Chứng minh , Hội đồng Trị sự , đại diện các ban ngành , đoàn thể Trung ương và TPHCM cùng môn đồ, pháp quyến của cố Đại lão Hoà thượng Thích Trí Thủ .

    Hòa thượng Thích Trí Thủ húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, hiệu Thích Trí Thủ. Hòa thượng sanh ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Dậu tức ngày 01 tháng 11 năm 1909, tại làng Trung Kiên , tổng Bích La , phủ Triệu Phong , tỉnh Quảng Trị. Thân Phụ là cụ Nguyễn Hưng Nghĩa, thân mẫu là cụ bà Lê Thị Chiểu , cả hai cụ thân sinh đều thuộc gia đình nhiều đời tin Phật . Hoà thượng là con trưởng trong gia đình có ba anh em . Năm lên 7 Hoà thượng bắt đầu học chữ Hán , năm lên 9 tuổi Hoà thượng được vào học trường làng . Năm 14 tuổi Hoà thượng đã vào học kinh Phật ở chùa Hải Đức – Huế . Năm 17 tuổi , Hoà thượng xuất gia tu học với Thiền Sư Viên Thành tại chùa Tra Am – Huế được ban Pháp danh Tâm Như , Pháp tự Đạo Gíam. Hai mươi tuổi, Ngài thọ cụ túc giới tại chùa Từ Vân ở Đà Nẵng .

    Tại buổi lễ, các đại biểu đã ôn lại công lao to lớn của cố Đại lão hòa thượng Thích Trí Thủ trong phong trào đấu tranh cho sự bình đẳng tôn giáo, đòi tự do tín ngưỡng, bảo vệ đạo pháp và dân tộc . Hoà thượng là một trong những bậc cao Tăng đã tích cực đóng góp trí huệ và công sức trong phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam thời bấy giờ . Hoà thượng đã mở các trường Phật học Tây Thiên , Linh Quang , Báo Quốc , Từ Đàm đào tạo nhiều thế hệ Tăng ni tài đức góp phần xây dựng và phát triển Phật giáo Việt Nam qua từng thời đại. Trong phong trào đấu tranh đòi bình đẳng tôn giáo trong những năm 1963 và cho đến ngày thống nhất Tổ quốc , Hoà thượng đã cùng các vị cao Tăng tích cực đấu tranh cho sự nghiệp bảo vệ Đạo pháp và Dân tộc . Với tài trí song toàn của bậc Thượng sĩ , Hoà thượng đảm nhận nhiều cương vị trọng yếu như Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hoằng Pháp , Tổng vụ trưởng Tài chánh , Viện Trưởng Viện Cao đẳng Phật học Sài gòn và Viện Trưởng Viện Hoá đạo Gíao hội Phật giáo Việt Nam thống nhất . Đặc biệt Hoà thượng rất quan tâm công tác hoằng pháp và dành nhiều thời gian để giảng kinh, thuyết pháp , viết sách , dịch Kinh , Luật, Luận . Những tác phẩm trước tác của Hoà thượng vẫn còn nguyên giá trị , mang tính khế lý, khế cơ , khế thời và khế xứ trong thời đại hội nhập hôm nay . Bằng giới đức thanh tịnh , thân giáo , khẩu giáo và ý giáo thâm nghiêm , Hoà thượng là hiện thân của giới luật , là sức sống miên viễn của Phật Pháp , là người khai thông giới thân huệ mạng cho hàng ngàn Tăng Ni và Phật tử ; Hoà thượng cũng chính là người đầu tiên tái lập hình thức truyền giới Tam sư Thất chứng , Tăng Ni nhị bộ.

    Tại Đại hội đại biểu thống nhất Phật giáo Việt Nam tổ chức ở thủ đô Hà Nội ngày 7.11.1981, Hòa thượng đắc cử Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam nhiệm kỳ đầu tiên , xây dựng thành công ngôi nhà giáo hội Phật giáo Việt Nam không ngừng phát triển trong lòng dân tộc với tâm nguyện :'' Những gì tôi làm lợi ích cho Đạo pháp tức là cho Dân tộc ; những gì tôi làm lợi ích cho Dân tộc tức là cho Đạo pháp .''

    Trong hơn 50 năm phụng sự đạo pháp và dân tộc , Hoà thượng đã thực hiện trọn vẹn các Phật sự , hạnh nguyện của Hoà thượng mãi mãi còn lưu dấu trong tâm trí Tăng Ni và Phật tử Việt Nam

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/10/2019(Xem: 3819)
Hòa Thượng Thích Huệ Quang (1927 - 2009) - Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam - Chứng minh Ban trị sự Phật giáo tỉnh Khánh Hòa - Huynh Trưởng Môn phong Tổ đình Nghĩa Phương - Viện chủ Chùa Đông Phước, Phước Long, TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa
20/10/2019(Xem: 4753)
Hoà thượng Thượng HOÀN Hạ QUAN, thế danh Phạm Ngọc Thơ. Pháp danh NHƯ CỤ THIỆN. Pháp tự GIẢI TOÀN NĂNG. Pháp hiệu THÍCH HOÀN QUAN. Sinh ngày 16-09-1928 (Năm Mậu Thìn) tại làng Phước Long, nay là thôn Hoà Bình xã Nghĩa Hoà huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Song thân của Ngài là Phạm Công Phạm Khánh Lâm và Cụ bà là Trần Thị Thưởng. Cụ Ông và Cụ bà đã hạ sinh được 6 người con, gồm 2 trai 4 gái, Ngài là người con thứ 5 trong gia đình.
20/10/2019(Xem: 2331)
Hòa thượng thế danh là Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Khánh Anh, Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi nhỏ, Ngài theo học Nho, luôn tỏ ra là một Nho sinh xuất sắc. Năm 21 tuổi (1916) nhận thấy cảnh thế phù du, cuộc đời là vô thường, giả tạm, Ngài quy y thọ giới tại chùa Cảnh Tiên. Năm 22 tuổi (1917) Ngài được nhập chúng tu học ở chùa Quang Lộc trong tỉnh, được ban pháp danh Chơn Húy. Sẵn có căn bản Hán học vững chắc, Ngài thâm nhập kinh tạng rất mau chóng. Ngài lần lượt thọ giới Sa Di và nghiên cứu Kinh, Luật, Luận rồi thọ giới Tỳ Kheo Bồ Tát với pháp hiệu Khánh Anh. Khi tròn 30 tuổi, Ngài trở thành một vị giảng sư Phật học nổi tiếng.
20/10/2019(Xem: 5444)
Hòa thượng thế danh là Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Khánh Anh, Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi nhỏ, Ngài theo học Nho, luôn tỏ ra là một Nho sinh xuất sắc. Năm 21 tuổi (1916) nhận thấy cảnh thế phù du, cuộc đời là vô thường, giả tạm, Ngài quy y thọ giới tại chùa Cảnh Tiên. Năm 22 tuổi (1917) Ngài được nhập chúng tu học ở chùa Quang Lộc trong tỉnh, được ban pháp danh Chơn Húy. Sẵn có căn bản Hán học vững chắc, Ngài thâm nhập kinh tạng rất mau chóng. Ngài lần lượt thọ giới Sa Di và nghiên cứu Kinh, Luật, Luận rồi thọ giới Tỳ Kheo Bồ Tát với pháp hiệu Khánh Anh. Khi tròn 30 tuổi, Ngài trở thành một vị giảng sư Phật học nổi tiếng.
20/10/2019(Xem: 5093)
Cố HT. Bửu Chơn tên thật Phạm Văn Tông, sinh ngày 25/10/1914, tại làng An Hội ‒ Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Ngài là con của cụ ông Phạm Văn Dư và cụ bà Lê Thị Dương. Tuổi thơ, ngài học ở trường làng, trường Tây, nhờ siêng năng, chăm học nên đã đậu bằng Preme. Năm 1930, ngài sang Nam Vang làm công chức trong cơ quan Việt Nha địa chính.
20/10/2019(Xem: 4413)
Hòa thượng Phước Hậu, pháp húy Trừng Thịnh, pháp tự Như Trung, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 42. Ngài thế danh Lê Văn Gia, sinh năm Bính Dần(1866), nhằm Tự Đức thứ 15, tại xã An Tiêm, huyện Đồng Quan, tỉnh Thái Bình.
20/10/2019(Xem: 5625)
Hòa thượng Pháp húy Ngộ Trí, đạo hiệu Thích Huệ Hưng, thế danh Nguyễn Thành Chẩm, thuộc dòng Thiền Lâm Tế đời thứ 39, là đệ tử Sư tổ Vạn An (Sa Đéc). Ngài sinh năm Đinh Tỵ (1917) tại làng Mỹ Thọ, quận Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ là cụ Nguyễn Minh Biện, pháp danh Minh Chiếu, thân mẫu là cụ Trần Thị Mậu, pháp danh Diệu Thiệt. Năm 62 tuổi, cụ bà xuất gia thọ giới Sa di ni.
20/10/2019(Xem: 4172)
Quốc sư tên thật là Nguyễn Tấn Giao, sinh năm Kỷ Tỵ (1869) tại làng Phú Thành, phủ An Nhơn, nay là ấp Phú Thành, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ Nguyễn Chánh Niệm, tự Hòa Bình, thân mẫu là cụ Nguyễn Thị Lãnh, ông bà đều là những Phật tửthuần thành. Năm 12 tuổi (1881), Ngài được cha mẹ cho phép xuất giatại chùa Thập Tháp, thọ giới với Hòa thượng Chí Tịnh (Minh Lý) được ban pháp hiệu là Phước Huệ. Một thời gian sau, Ngài được Bổn sư cho tới chùa Tịnh Lâm ở huyện Phù Cát, Bình Định theo học với Hòa thượng chùa Châu Long là Ngài Từ Mẫn. Năm 19 tuổi, Ngài trở về giữ chức Thủ khố của Tổ đình Thập Tháp. Năm 20 tuổi Ngài vào chùa Từ Quang ở Đá Trắng huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên theo học với Hòa thượng Luật Truyền (Pháp Chuyên). Ngài thọ đại giới năm 1889 và đắc pháp năm 1892 với Hòa thượng Luật Truyền.
20/10/2019(Xem: 4474)
Hòa Thượng Thích Mật Thể (1912 - 1961) Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
26/09/2019(Xem: 23058)
Ẩn mình trong dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ là xứ sở Bhutan, một quốc gia nhỏ bé nằm phía sau dãy Hy Mã Lạp Sơn, giống như Tây Tạng, một địa chỉ tâm linh huyền bí và khép kín với thế giới bên ngoài. Đặc biệt đây là một đất nước lấy chỉ số thu nhập GDP không phải là tiền bạc mà là hạnh phúc của con người. Tu Viện Quảng Đức sẽ tổ chức chuyến hành hương thăm viếng Bhutan và Tích Lan từ ngày 26/9 đến 12/10/2019, lệ phí trọn gói: $6,500, số khách giới hạn, xin quý Phật tử hoan hỷ đăng ký sớm. Hạn chót đăng ký và đóng tiền đầy đủ: 25/7/2019. Chuyến đi do Thượng Tọa Trụ Trì Thích Nguyên Tạng làm trưởng đoàn cùng với Đạo Hữu Tony Thạch (giám đốc công ty Triumph Tour) làm trợ lý cho Thầy để lo các công việc cần thiết. Xin quý Phật tử xa gần liên lạc về Tu Viện Quảng Đức (03.9357 3544 hoặc email:[email protected]) để ghi danh tham dự chuyến hành hương chiêm bái này. Chi tiết, xin quý Phật tử thường xuyên vào xem tại trang nhà: www.quangduc.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]