Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trần Nhân Tông Vị Anh Hùng Dân Tộc Khai Sáng Tư Tưởng Phật Giáo Việt Nam

10/08/201100:56(Xem: 5790)
Trần Nhân Tông Vị Anh Hùng Dân Tộc Khai Sáng Tư Tưởng Phật Giáo Việt Nam


TRẦN NHÂN TÔNG
VỊ ANH HÙNG DÂN TỘC KHAI SÁNG TƯ TƯỞNG
PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Trần Lưu

Đã có 92 tham luận của chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước gửi đến cuộc hội thảo khoa học về cuộc đời và sự nghiệp của Đức vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông hôm qua 26-11, tại thị xã Uông Bí (Quảng Ninh).

Nội dung các tham luận tập trung vào những vấn đề: vua Trần Nhân Tông và thời đại; vua Trần Nhân Tông, người anh hùng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước; di sản văn hóa, tư tưởng thời Trần và của vua Trần Nhân Tông...

Bậc minh quân kỳ tài

Tại hội thảo, các tham luận đều tập trung làm rõ vua Trần Nhân Tông là một bậc minh quân kỳ tài, đã góp phần tô thêm trang sử vàng chói lọi của dân tộc thời nhà Trần nói riêng và dân tộc nói chung, với việc lãnh đạo quân dân 2 lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông (1285 và 1288), tạo lập đỉnh cao nền văn minh Đại Việt lúc bấy giờ.

Theo Thượng tọa Thích Quảng Tùng (Hải Phòng), vua Trần Nhân Tông đã được thừa hưởng một truyền thống quý báu yêu nước, thương dân, mến mộ thiền học từ ông nội là vua Trần Thái Tông và cha là vua Trần Thánh Tông.
Trong thời gian cầm quyền của mình, ông không những thể hiện là một nhà chính trị lý tưởng, nhà quân sự xuất sắc mà còn là một nhà ngoại giao, nhà kinh tế, nhà văn hóa lớn. Vua Trần Nhân Tông có nhiều biện pháp cải cách, phát triển nông nghiệp, thương mại và thủ công nghiệp, giúp người dân có đầy đủ cái ăn, cái mặc.

Ông cũng có nhiều bài thơ, văn bất hủ và lần đầu tiên các chiếu chỉ của triều đình không những đọc bằng tiếng Hán, mà còn phải đọc bằng tiếng Việt để mọi tầng lớp nhân dân đều hiểu biết. Trong chiến trận, vua đã luôn sát cánh với Trần Hưng Đạo để đốc quân, khi thắng trận bắt được tướng giặc và binh lính, Trần Nhân Tông đều cho tiếp đãi tử tế, cho thuyền, lương thực để về nước...

Nhiều tham luận đã phân tích khá kỹ các hoạt động ngoại giao có tính “chiến lược” do vua Trần Nhân Tông khởi xướng. Trong đó, chú trọng xây dựng mối quan hệ hòa bình với phương Bắc và phương Nam.
Từ đó góp phần nâng cao vị trí, vai trò của Đại Việt trong khu vực, đồng thời giữ vững chủ quyền, độc lập quốc gia. Sau này, khi đã xuất gia tu hành, chính ông đã chủ trương mai mối để gả con gái của mình là Huyền Trân Công chúa cho vua Chiêm là Chế Mân, từ đó mở mang thêm bờ cõi Đại Việt với 2 châu Ô và Lý.

Một số tham luận đã chứng minh, ngay cả lúc đang ở ngôi hoặc sau khi đi tu, vua không bao giờ xao lãng công việc triều chính, chăm lo cho dân cho nước tới giờ phút cuối cùng. Vua đã đi khắp nơi trong nước để dẹp bỏ quan dâm, quan tham khiến dân đói rách, lầm than cực khổ, đem 10 điều thiện và giới Bồ Tát giảng bày cho dân chúng làm theo, gia đình và xã hội nhờ đó được yên bình, bớt loạn lạc.

Với vai trò Thái thượng hoàng sau khi đã nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, ông vẫn luôn rất quan tâm, lo lắng đến đời sống thường ngày của người dân; thường xuyên thị sát, đốc thúc các hoạt động để phát triển kinh tế xã hội.

Khai sáng Phật giáo Việt Nam

Trong lá thư gửi đến hội thảo, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Trong thời đại nhà Trần, lần đầu tiên xuất hiện một vị vua – vua Trần Nhân Tông đã rời bỏ ngai vàng đi vào nhân dân, xuất gia tu hành đạo Phật, sáng tạo nên một trường phái Phật giáo mới – Phật giáo Việt Nam. Trần Nhân Tông đúng là một vị vua văn võ song toàn, một vị Phật hoàng có công lao to lớn đối với dân tộc”. Đây là quan điểm được hầu hết các tham luận tại hội thảo đề cập và đề cao.

Năm 41 tuổi, sau 14 năm ở ngôi vua và 5 năm làm Thái thượng hoàng, Trần Nhân Tông chính thức xuất gia tu hành tại chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử (Quảng Ninh), lấy đạo hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà, về sau đổi làm Trúc Lâm Đại Đầu Đà, kế thừa Huệ Tuệ Thiền Sư làm tổ thứ 6 của Sơn môn Yên Tử.

Về sau, Trần Nhân Tông đã đổi tên Sơn môn Yên Tử thành Trúc Lâm Thiền phái, tự mình làm Đệ nhất Tổ với mục đích quy tụ ý chí, sức mạnh của toàn dân tộc hướng về một thế giới tâm linh thuần thiện, thuần mỹ, từ đó hóa thành tinh thần đoàn kết của cả dân tộc Đại Việt. Ông là người duy nhất ở Việt Nam được gọi là Phật hoàng.

Các nhà nghiên cứu cho rằng, vua Trần Nhân Tông khéo léo và tài tình ở chỗ thống nhất được các thiền phái Phật giáo ở nước ta lúc bấy giờ thành một, để nước Đại Việt có một đạo Phật đủ tiềm lực tôn giáo (thiền phái Trúc Lâm), phát triển nội lực cá nhân và tập thể, có thể làm lợi ích cho bản thân mình và đồng loại, trong đó có lợi nhiều mặt cho quốc gia và xã hội.

Chính vì vậy, Đức vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông không chỉ được giới phật tử tôn thờ mà xã hội, lịch sử nước Việt Nam cũng ghi nhận và tôn vinh.

Hòa thượng Thích Thiện Nhơn (Phó Chủ tịch, kiêm Tổng thư ký Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam) khẳng định: Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do vua Trần Nhân Tông sáng lập là thiền giáo song hành, nên không những đã thể hiện trọn vẹn tinh thần Phật giáo Việt Nam, mà còn phù hợp ý chỉ chư Phật và lòng người. Qua đó, đã tạo nên sự đoàn kết, nhất trí toàn dân, thống nhất Phật giáo Việt Nam lúc bấy giờ.

Hòa thượng Thích Minh Thịnh (Hà Nội) cho rằng: Phật giáo Trúc Lâm là một nền Phật học độc lập, uy tín; tinh thần của nó là tinh thần quốc gia Đại Việt, là xương sống của nền văn hóa Việt Nam độc lập lúc bấy giờ. Nền Phật học do vua Trần Nhân Tông khởi xướng này tuy có tiếp nhận những ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa và Ấn Độ nhưng vẫn giữ được cá tính đặc biệt của mình. Đứng về phương diện tư tưởng, tổ chức, cũng như hành đạo, giáo hội Trúc Lâm có những nét độc đáo riêng, khiến cho nó chỉ có thể là một giáo hội Việt Nam, phục vụ người Việt, duy trì và bồi đắp căn tính Việt.

Đề cập đến vai trò của đạo Phật đối với xã hội Đại Việt thời nhà Trần, TS. Nguyễn Phương Chi (Viện Sử học) cho biết: Phật giáo thời Trần là một trong những yếu tố quan trọng của xã hội Đại Việt. Nó đóng vai trò thiết yếu trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Nó là sợi dây nối kết tình đoàn kết nhân dân với tầng lớp lãnh đạo đất nước. Hệ tư tưởng và những tác phẩm văn hóa Phật giáo là tinh hoa của quốc gia Đại Việt thời Trần và đến nay, nó là di sản văn hóa quý giá của dân tộc.
Phật giáo mà điển hình là giáo phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập, “với sức sống bền bỉ trong các tầng lớp nhân dân, tác động mạnh mẽ đến xã hội bởi các luân lý đạo đức, kêu gọi làm việc thiện, thương yêu người khác và tôn trọng phép nước... Trúc Lâm thiền phái đã trở thành uy lực thống nhất ý thức hệ toàn dân, trở thành nhân tố dệt nên tư tưởng và tính chất xã hội độc đáo, mang đậm tính dân tộc” – TS Nguyễn Phương Chi khẳng định.

Trần Lưu

(Sài Gòn Giải Phóng)
TRẦN NHÂN TÔNG
VỊ HOÀNG ĐẾ ĐẶC BIỆT TRONG LỊCH SỬ
trannhantong-tuongniem-05

Tại Hội thảo khoa học 700 năm ngày mất của Đức Vua Trần Nhân Tông, tổ chức tại Quảng Ninh, hôm nay, Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm, Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP HCM, nhận định, Trần Nhân Tông là một hoàng đế đặc biệt, người có nhiều đóng góp quan trọng trên cả ba lĩnh vực: dựng nước, giữ nước, mở nước.

Hội thảo thu hút trên 300 đại biểu là các nhà khoa học, chức sắc, nhà quản lý tôn giáo, cư sỹ, Phật tử, đại diện các tổ đình thiền phái Trúc Lâm và dòng họ Trần Việt Nam tham dự.

Hàng trăm người dân thuộc đủ mọi thành phần, dân tộc, lứa tuổi và đến từ rất nhiều vùng miền khác nhau trên cả nước đã có mặt trong khuôn viên khách sạn thương mại Uông Bí, Quảng Ninh, để theo dõi hội thảo “Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông - cuộc đời và sự nghiệp” qua màn hình lớn do phòng họp của khách sạn không đủ sức chứa.

“Sự quan tâm của người dân chứng tỏ sức hút to lớn của Vua Phật còn nguyên vẹn trong tâm trí người dân Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp của ngài là đề tài lớn để con cháu muốn đời sau khám phá, học hỏi”, Hòa thượng Thích Thanh Tứ, Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng ban tổ chức đại lễ tưởng niệm 700 năm ngày mất của Phật hoàng Trần Nhân Tông, nói.

Từ sáng sớm, trên một 100 Phật tử đến từ Hải Phòng, Bắc Giang có mặt tại thị xã Uông Bí để dự hội thảo. Dù nhà ở khá gần địa điểm tổ chức nhưng bác Lương Gia Sành, 85 tuổi, ở phường Thanh Sơn, thị xã Uông Bí, cũng tranh thủ đi sớm, tìm một chỗ ngồi tốt để tập trung lĩnh hội thêm những tư tưởng, triết lý của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Anh A Nính (Kon Tum) là một trong 46 thành viên của đoàn công chiêng Tây Nguyên có cơ duyên được chọn ra Bắc biểu diễn văn nghệ phục vụ đại lễ tưởng niệm 700 năm ngày mất của Phật hoàng Trần Nhân Tông (diễn ra vào sáng 27/11). Tranh thủ lúc không tập luyện, anh đến hội thảo để “tìm về cội nguồn, hiểu hơn về con người của đức Phật hoàng Trần Nhân Tông, vị sơ tổ của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử”.

Hơn 8h, hội thảo chính thức khai mạc. Tham dự có nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, nguyên Phó chủ tịch Quốc hội Trương Quang Được, nguyên Trưởng Ban Tư tưởng Văn hóa (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương) Nguyễn Khoa Điềm.

Trong lá thư gửi tới hội thảo, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: Trần Nhân Tông là một vị vua văn võ song toàn, Phật hoàng có nhiều đóng góp to lớn đối với dân tộc.

Mở đầu Hội thảo, Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm, Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP HCM, mở đầu hội thảo với nhận định: “Trần Nhân Tông là một hoàng đế đặc biệt, người có nhiều đóng góp quan trọng trên cả ba lĩnh vực: dựng nước, giữ nước, mở nước. Song điểm được coi là nổi bật nhất trong sự nghiệp, cuộc đời Trần Nhân Tông là việc sáng lâp ra phái thiền Trúc Lâm Yên Tử, dòng thiền của riêng người Việt”.

Theo Thượng tọa, thiền phái Trúc Lâm là sự kết hợp của bốn dòng thiền đã có mặt ở Việt Nam, thể hiện tinh thần và khả năng đoàn kết của nó. "Không chỉ là sự kết hợp của các dòng thiền ta còn có thể thấy giáo lý của thiền phái Trúc Lâm là sự kết hợp giữa triết học siêu nhân của Phật giáo với nhân sinh quan của Nho giáo và vũ trụ quan của Lão giáo, là sự thể hiện tư tưởng tam giáo đồng nguyên. Đặc biệt đây là thiền phái đầu tiên do chính là vị hoàng đế đứng đầu một đất nước, đã từng chiến thắng đội quân hung hãn nhất thế kỷ 13 sáng lập”, Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm phân tích.

Cũng theo Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm, nhắc tới thiền phái Trúc Lâm còn là nhắc tới tinh thần nhập thế của Phật giáo với tư tưởng hòa quang đồng trần. Đó là: “Phật giáo của mọi người, không hạn chế trong tăng sỹ cũng như trong chùa chiền. Ai cũng biện tâm được, không kể xuất gia hay tại gia. Ở giữa trần tục chứ không cần ở chùa, ở núi vẫn có thể vui với đạo". Tư tưởng trên làm cho đạo Phật mặc dù có giáo lý cao siêu thâm diệu nhưng vẫn có nền tảng quần chúng rộng rãi. Điều quan trọng hơn, sự ra đời của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã góp phần cổ vũ tinh thần người dân nước Việt về khả năng phát huy những giá trị văn hóa bản địa, văn hóa truyền thống và mở ra phong trào Phật học mới.

Tiến sỹ Nguyễn Hữu Nguyên, Viện nghiên cứu phát triển TP HCM, cho rằng, thời đại nhà Trần có hai đỉnh cao là tư tưởng Phật giáo và sức mạnh chống giặc ngoại xâm. Đời vua Trần Nhân Tông (1279-1293), nước Đại Việt hai lần đánh thắng quân Nguyên. Trong lễ mừng chiến thắng, Trần Nhân Tông ghi lại hai câu thơ: “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã/Sơn hà thiên cổ điện kim âu”. Tinh thần Phật giáo Việt Nam đặt “quốc gia xã tắc lên trên, lấy thân mình dẫn đạo” được hình thành. “Đỉnh cao của tư tưởng Phật giáo nhập thế đã thể hiện rất rõ ở vị vua đã đích thân hai lần đánh thắng quân Nguyên - Mông nhưng không màng danh lợi ở triều đình mà lui về chốn thanh cao để sáng lập thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, đó là giáo phái lớn nhất Việt Nam tồn tại cho đến ngày này”, tiến sỹ Nguyên khẳng định.

Cũng theo phân tích của ông Nguyên, nhìn từ góc độ chính trị, quyền lực, bên trong ông Vua Trần Nhân Tông có một ông Phật nhưng nhìn từ góc độ tôn giáo, bên trong ông Phật có một ông Vua. Nếu làm vua là nhà chính trị; tu hành là nhà đạo đức thì ở Trần Nhân Tông là sự hòa quyện cả hai trong một con người vĩ đại.

Từ cuộc đời và sự nghiệp của Trần Nhân Tông, một hạt nhân tiêu biểu của triều Trần, tiến sỹ Nguyên khái quát: “Tư tưởng Phật giáo thời Trần đã đạt đến độ cao siêu để có thể tìm thấy sự dung hòa với chính trị ở mục đích bảo vệ “quốc gia xã tắc”.

Đến từ xứ sở mặt trời mọc, Giáo sư, Hòa thượng Yoshimizu Daichi nhận xét: Trần Nhân Tông là một vị vua anh minh, sáng suốt, hiền từ, đã ẩn tu trên Yên Tử và trở thành vị tổ của thiền phái Trúc Lâm mang bản sắc dân tộc Việt Nam thuần túy.

Nghiên cứu Phật giáo hai nước, vị giáo sư, nhà sư Nhật này đưa ra một phát hiện khá thú vị: Vua Trần Nhân Tông, người Việt Nam, sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và Pháp Nhiên; người Nhật Bản sáng lập ra tịnh độ tông Nhật Bản là hai quốc bảo nhân gian, đã cống hiến cho nhân loại nói chung và Phật giáo nói riêng.

(Theo baodatviet.vn)


11-30-2008 09:23:13

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2016(Xem: 6262)
Hòa Nhập Ta Bà Bát Thập Tam Thượng Tôn Chánh Pháp Sáu Mươi Năm Như Như Lão Giả Như Như Thật Huệ Đắc Nào Hay Lão Chẳng Tầm Cao Tột Một Đời Thông Cửu Phẩm Đăng Soi Vạn Thuở Sáng Ngàn Năm Phật Đà Tiếp Dẫn Hương Quang Tỏa Quốc Độ Tây Phương Linh Giác Tâm.
23/06/2016(Xem: 30852)
ISBN: 978-0-9945548-4-0 , Ban Tổ Chức Tang Lễ và Môn Đồ Pháp Quyến chúng tôi trân trọng kính báo tin: ĐỨC TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH NHƯ HUỆ Pháp tự Giải Trí, Đạo hiệu Trí Thông, thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 41. - Nguyên Hội Chủ Giáo Hội PGVNTNHN tại UĐL-TTL (1999- 2015) - Chứng Minh Đạo Sư của Giáo Hội; Phương Trượng Tổ Đình Pháp Hoa Nam Úc, Australia. Sinh ngày 02/04/1934 (Giáp Tuất) tại làng Cẩm Phô, TP Hội An, Tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Vừa thuận thế vô thường thâu thần an nhiên thị tịch vào lúc 9.25 tối ngày 23/06/2016 (nhằm ngày 19/5/Bính Thân) tại Tổ Đình Pháp Hoa Nam Úc. Thọ thế: 83 tuổi, 60 Hạ lạp
20/06/2016(Xem: 7967)
Hòa-Thượng pháp húy Nhựt-Thuận, Tự Thiện Lý hiệu Thích Bửu-Thắng thế danh Huỳnh-Văn-Giác., thuộc dòng LÂM-TẾ đời Gia Phổ thứ 41, là đệ tử của Tổ HỒNG-HOA. Ngài sinh năm Đinh Tỵ (1917) tại Thị Xã GÒ-CÔNG Tỉnh TIỀN-GIANG. Thân phụ là cụ HUỲNH VĂN THIỆT, thân mẫu là cụ ĐỖ-THỊ-THẾ. Ngài là con trai độc nhứt trong gia đình khá giả, nên thuở thiếu thời Ngài rất mực phong lưu, cầm, kỳ, thi, họa đều tinh thông nhưng sở trường là môn thi phú. Nhân một dịp lên Sài-Gòn Ngài được xem vở tuồng về Lịch Sử Đức Phật, tâm hồn Ngài tự nhiên biến chuyển, thường suy tư trầm mặc, hình ảnh Đức Phật Thích Ca luôn xuất hiện trong tâm tưởng Ngài. Nhưng hột giống xa xưa vừa được khơi dậy thì lượng sóng của dòng đời cũng bắt đầu lôi cuốn. Theo quan niệm người xưa, quan trọng việc kế thừa hương quả. Năm 16 tuổi trên gương mặt của người thiếu niên còn rạng rỡ nét hồn nhiên thanh thản, Ngài vâng lệnh nghiêm đường tác thành hôn phối.Trong cuộc sống gia đình, tâm tư Ngài luôn luôn tư duy khắckhoải về cái gì ngoà
17/06/2016(Xem: 18412)
Ngài sinh ra để kế thế Sơ Tổ Nhân Tông Ngài hiện thân để khôi phục Thiền Tông Việt Nam Phật Giáo Việt Nam có Thiền Phái Trúc Lâm Rạng rỡ huy hoàng gần ngàn năm lịch sử Ngài sinh ra để chấn tích hưng long nghiệp Tổ Ngài hiện thân để giương trượng chống đỡ Thiền Môn Phật Giáo Việt Nam có sắc thái ửng son Có một chỗ đứng đường đường giữa thiên hà hoàn vũ
14/06/2016(Xem: 7260)
Sư Cô Diệu Huệ đã ra đi thật rồi! Tôi còn bàng hoàng như người vừa tỉnh mộng. Người ra đi chóng thế sao? Chiều hôm kia, khi cùng Thầy Trụ Trì và Tăng Đoàn Chùa Giác Ngộ đến với giây phút tạ từ và trong thời trợ niệm cho Sư Cô tôi thấy Sư Cô biểu hiện xúc động trên khuôn mặt và trong hơi thở gấp gáp. Sư Cô tuy không đủ sức nói hoặc cử động nhiều được nữa nhưng vẫn cảm nhận những âm thanh quen thuộc, cảnh sắc và ý thức được rằng chư Tăng đang vân tập để an ủi, chia sẻ, hộ niệm cho mình trong bước đăng trình. Sắc mặt Sư Cô vẫn còn tươi lắm, thế mà sau khi xong thời Kinh trợ niệm, tôi về phòng và đi công việc trong chốc lát, khi trở về Chùa Giác Ngộ thì hay tin rằng : Sư Cô đã viên tịch. Nhanh thật, mới vào bệnh viện được 2 hôm, hôm qua còn tỉnh táo nói năng nhắn nhủ được, hôm nay đã ra đi rồi…!
09/06/2016(Xem: 13464)
CÁO PHÓ Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Gia đình chúng con, chúng tôi vô cùng thương tiếc, kính báo tin cùng Chư Tôn Đức, Thân Bằng Quyến Thuộc và Bạn Hữu xa gần; Mẹ, Bà của chúng con, chúng tôi là: Chơn Linh Sa Di Ni Bồ Tát Giới Thích Nữ Diệu Niệm Thế danh: NGUYỄN THỊ NỔI Sinh ngày 6/1/1925 tại Quảng Ngãi, Việt Nam Vãng sanh lúc 6am ngày mùng 5-5-Bính Thân (9-6-2016) Tại Melbourne, Úc Châu Thọ thế: 91 tuổi Chương Trình Tang Lễ: - Lễ nhập liệm, Phát tang: lúc 11am, Thứ Bảy:11/06/5/2016 tại Vãng Sanh Đường Tu Viện Quảng Đức, 105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060, Phone:(03) 9357 3544 (sau lễ nhập liệm, lễ cầu siêu và phúng viếng đến 10.pm) - Lễ Cầu Siêu và Phúng viếng: 8am-10pm: Chủ Nhật 12/06/2016 tại Vãng Sanh Đường Tu Viện Quảng Đức, 105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060, Phone:(03) 9357 3544 - Lễ Động Quan: lúc 1pm, Thứ Hai:13/06/2016 ,Linh Cữu được đưa đi hỏa táng tại Nghĩa Trang Fawkner, sau đó gia đình thỉnh Chơn Linh về làm lễ An Sàng và cúng thất tuần tại C
31/05/2016(Xem: 9219)
Trưởng Lão HT Thích Chơn Phát-Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hộ -Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam; -Chứng minh Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Quảng Nam; -Viện chủ Tổ đình Long Tuyền, phường Thanh Hà, Tp. Hội An, tỉnh Quảng Nam. Do niên cao lạp trưởng, Trưởng lão Hòa thượng đã thâu thần viên tịch vào lúc 18giờ00 ngày 28 tháng 5 năm 2016 (nhằm ngày 22 tháng 4 năm Bính Thân) tại Tổ đình Long Tuyền, phường Thanh Hà, Tp. Hội An, tỉnh Quảng Nam. * Trụ thế: 86 năm * Hạ lạp: 59 năm - Lễ nhập kim quan chính thức cử hành vào lúc 17giờ00, ngày 29 tháng 5 năm 2016 (nhằm ngày 23 tháng 4 năm Bính Thân). - Kim quan Trưởng lão Hòa Thượng được tôn trí tại Tổ đình Long Tuyền, Tp. Hội An, tỉnh Quảng Nam. - Lễ viếng bắt đầu từ lúc 07giờ00 ngày 30 tháng 5 năm 2016 (nhằm ngày 24 tháng 4 năm Bính Thân). - Lễ truy điệu được cử hành lúc 07giờ 30 ngày 02 tháng 6 năm 2016 (nhằm ngày 27 tháng 4 năm Bính Thân),
27/05/2016(Xem: 5640)
Khánh Hòa: Trang nghiêm lễ tưởng niệm lần thư 53 ngày Bồ-tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân Sáng nay, 20-4- Binh Thân (26-5-2916) chư tôn giáo phẩm HĐCM, HĐTS, BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hòa đã thành kính trang nghiêm cử hành Lễ tưởng niệm lần thứ 53 ngày Bồ-tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân và hiệp kỵ chư Thánh tử đạo tại lễ đài chùa Long Sơn - Văn phòng Ban trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa. Quang lâm chứng minh và tham dự có chư tôn giáo phẩm HĐCM, HĐTS, BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hòa: Đại lão HT.Thích Thiện Bình, Phó Pháp chủ HĐCM- Trưởng BTS GHPGVN tỉnh; chư Tôn Đức Tăng Ni Thường trực BTS GHPGVN tỉnh; Ban giám hiệu, Tăng Ni sinh trường Trung cấp Phật học Khánh Hòa, chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử các tự viện tại thành phố Nha Trang.
18/05/2016(Xem: 11215)
Không hiểu vì sao khi chú mất, tôi lại nghĩ mình cần phải viết điều gì đó cho chú, và chính tôi mới hợp nhất trong vai trò người viết này. Có lẽ vì trong quan hệ giữa tôi và chú có cả hai cực Dương và Âm thuần tịnh nhất để tạo nên một khối chân thực. Chính tôi là người chống và phê bình chú nhiều nhất và cũng chính tôi đã thấu được lòng yêu thương chân thành của chú đến người Việt ở đây và nỗi khát khao đem Phật pháp đến cho họ. Và tôi viết những dòng này cho chú.
17/05/2016(Xem: 12100)
Ngày Hoan Hỷ, Tập Văn Kỷ Niệm Khóa Huấn Luyện Trụ Trì năm Đinh Dậu 1957_HT Thích Thiện Hòa
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]