Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trần Nhân Tông Vị Anh Hùng Dân Tộc Khai Sáng Tư Tưởng Phật Giáo Việt Nam

10/08/201100:56(Xem: 5770)
Trần Nhân Tông Vị Anh Hùng Dân Tộc Khai Sáng Tư Tưởng Phật Giáo Việt Nam


TRẦN NHÂN TÔNG
VỊ ANH HÙNG DÂN TỘC KHAI SÁNG TƯ TƯỞNG
PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Trần Lưu

Đã có 92 tham luận của chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước gửi đến cuộc hội thảo khoa học về cuộc đời và sự nghiệp của Đức vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông hôm qua 26-11, tại thị xã Uông Bí (Quảng Ninh).

Nội dung các tham luận tập trung vào những vấn đề: vua Trần Nhân Tông và thời đại; vua Trần Nhân Tông, người anh hùng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước; di sản văn hóa, tư tưởng thời Trần và của vua Trần Nhân Tông...

Bậc minh quân kỳ tài

Tại hội thảo, các tham luận đều tập trung làm rõ vua Trần Nhân Tông là một bậc minh quân kỳ tài, đã góp phần tô thêm trang sử vàng chói lọi của dân tộc thời nhà Trần nói riêng và dân tộc nói chung, với việc lãnh đạo quân dân 2 lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông (1285 và 1288), tạo lập đỉnh cao nền văn minh Đại Việt lúc bấy giờ.

Theo Thượng tọa Thích Quảng Tùng (Hải Phòng), vua Trần Nhân Tông đã được thừa hưởng một truyền thống quý báu yêu nước, thương dân, mến mộ thiền học từ ông nội là vua Trần Thái Tông và cha là vua Trần Thánh Tông.
Trong thời gian cầm quyền của mình, ông không những thể hiện là một nhà chính trị lý tưởng, nhà quân sự xuất sắc mà còn là một nhà ngoại giao, nhà kinh tế, nhà văn hóa lớn. Vua Trần Nhân Tông có nhiều biện pháp cải cách, phát triển nông nghiệp, thương mại và thủ công nghiệp, giúp người dân có đầy đủ cái ăn, cái mặc.

Ông cũng có nhiều bài thơ, văn bất hủ và lần đầu tiên các chiếu chỉ của triều đình không những đọc bằng tiếng Hán, mà còn phải đọc bằng tiếng Việt để mọi tầng lớp nhân dân đều hiểu biết. Trong chiến trận, vua đã luôn sát cánh với Trần Hưng Đạo để đốc quân, khi thắng trận bắt được tướng giặc và binh lính, Trần Nhân Tông đều cho tiếp đãi tử tế, cho thuyền, lương thực để về nước...

Nhiều tham luận đã phân tích khá kỹ các hoạt động ngoại giao có tính “chiến lược” do vua Trần Nhân Tông khởi xướng. Trong đó, chú trọng xây dựng mối quan hệ hòa bình với phương Bắc và phương Nam.
Từ đó góp phần nâng cao vị trí, vai trò của Đại Việt trong khu vực, đồng thời giữ vững chủ quyền, độc lập quốc gia. Sau này, khi đã xuất gia tu hành, chính ông đã chủ trương mai mối để gả con gái của mình là Huyền Trân Công chúa cho vua Chiêm là Chế Mân, từ đó mở mang thêm bờ cõi Đại Việt với 2 châu Ô và Lý.

Một số tham luận đã chứng minh, ngay cả lúc đang ở ngôi hoặc sau khi đi tu, vua không bao giờ xao lãng công việc triều chính, chăm lo cho dân cho nước tới giờ phút cuối cùng. Vua đã đi khắp nơi trong nước để dẹp bỏ quan dâm, quan tham khiến dân đói rách, lầm than cực khổ, đem 10 điều thiện và giới Bồ Tát giảng bày cho dân chúng làm theo, gia đình và xã hội nhờ đó được yên bình, bớt loạn lạc.

Với vai trò Thái thượng hoàng sau khi đã nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, ông vẫn luôn rất quan tâm, lo lắng đến đời sống thường ngày của người dân; thường xuyên thị sát, đốc thúc các hoạt động để phát triển kinh tế xã hội.

Khai sáng Phật giáo Việt Nam

Trong lá thư gửi đến hội thảo, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Trong thời đại nhà Trần, lần đầu tiên xuất hiện một vị vua – vua Trần Nhân Tông đã rời bỏ ngai vàng đi vào nhân dân, xuất gia tu hành đạo Phật, sáng tạo nên một trường phái Phật giáo mới – Phật giáo Việt Nam. Trần Nhân Tông đúng là một vị vua văn võ song toàn, một vị Phật hoàng có công lao to lớn đối với dân tộc”. Đây là quan điểm được hầu hết các tham luận tại hội thảo đề cập và đề cao.

Năm 41 tuổi, sau 14 năm ở ngôi vua và 5 năm làm Thái thượng hoàng, Trần Nhân Tông chính thức xuất gia tu hành tại chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử (Quảng Ninh), lấy đạo hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà, về sau đổi làm Trúc Lâm Đại Đầu Đà, kế thừa Huệ Tuệ Thiền Sư làm tổ thứ 6 của Sơn môn Yên Tử.

Về sau, Trần Nhân Tông đã đổi tên Sơn môn Yên Tử thành Trúc Lâm Thiền phái, tự mình làm Đệ nhất Tổ với mục đích quy tụ ý chí, sức mạnh của toàn dân tộc hướng về một thế giới tâm linh thuần thiện, thuần mỹ, từ đó hóa thành tinh thần đoàn kết của cả dân tộc Đại Việt. Ông là người duy nhất ở Việt Nam được gọi là Phật hoàng.

Các nhà nghiên cứu cho rằng, vua Trần Nhân Tông khéo léo và tài tình ở chỗ thống nhất được các thiền phái Phật giáo ở nước ta lúc bấy giờ thành một, để nước Đại Việt có một đạo Phật đủ tiềm lực tôn giáo (thiền phái Trúc Lâm), phát triển nội lực cá nhân và tập thể, có thể làm lợi ích cho bản thân mình và đồng loại, trong đó có lợi nhiều mặt cho quốc gia và xã hội.

Chính vì vậy, Đức vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông không chỉ được giới phật tử tôn thờ mà xã hội, lịch sử nước Việt Nam cũng ghi nhận và tôn vinh.

Hòa thượng Thích Thiện Nhơn (Phó Chủ tịch, kiêm Tổng thư ký Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam) khẳng định: Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do vua Trần Nhân Tông sáng lập là thiền giáo song hành, nên không những đã thể hiện trọn vẹn tinh thần Phật giáo Việt Nam, mà còn phù hợp ý chỉ chư Phật và lòng người. Qua đó, đã tạo nên sự đoàn kết, nhất trí toàn dân, thống nhất Phật giáo Việt Nam lúc bấy giờ.

Hòa thượng Thích Minh Thịnh (Hà Nội) cho rằng: Phật giáo Trúc Lâm là một nền Phật học độc lập, uy tín; tinh thần của nó là tinh thần quốc gia Đại Việt, là xương sống của nền văn hóa Việt Nam độc lập lúc bấy giờ. Nền Phật học do vua Trần Nhân Tông khởi xướng này tuy có tiếp nhận những ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa và Ấn Độ nhưng vẫn giữ được cá tính đặc biệt của mình. Đứng về phương diện tư tưởng, tổ chức, cũng như hành đạo, giáo hội Trúc Lâm có những nét độc đáo riêng, khiến cho nó chỉ có thể là một giáo hội Việt Nam, phục vụ người Việt, duy trì và bồi đắp căn tính Việt.

Đề cập đến vai trò của đạo Phật đối với xã hội Đại Việt thời nhà Trần, TS. Nguyễn Phương Chi (Viện Sử học) cho biết: Phật giáo thời Trần là một trong những yếu tố quan trọng của xã hội Đại Việt. Nó đóng vai trò thiết yếu trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Nó là sợi dây nối kết tình đoàn kết nhân dân với tầng lớp lãnh đạo đất nước. Hệ tư tưởng và những tác phẩm văn hóa Phật giáo là tinh hoa của quốc gia Đại Việt thời Trần và đến nay, nó là di sản văn hóa quý giá của dân tộc.
Phật giáo mà điển hình là giáo phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập, “với sức sống bền bỉ trong các tầng lớp nhân dân, tác động mạnh mẽ đến xã hội bởi các luân lý đạo đức, kêu gọi làm việc thiện, thương yêu người khác và tôn trọng phép nước... Trúc Lâm thiền phái đã trở thành uy lực thống nhất ý thức hệ toàn dân, trở thành nhân tố dệt nên tư tưởng và tính chất xã hội độc đáo, mang đậm tính dân tộc” – TS Nguyễn Phương Chi khẳng định.

Trần Lưu

(Sài Gòn Giải Phóng)
TRẦN NHÂN TÔNG
VỊ HOÀNG ĐẾ ĐẶC BIỆT TRONG LỊCH SỬ
trannhantong-tuongniem-05

Tại Hội thảo khoa học 700 năm ngày mất của Đức Vua Trần Nhân Tông, tổ chức tại Quảng Ninh, hôm nay, Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm, Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP HCM, nhận định, Trần Nhân Tông là một hoàng đế đặc biệt, người có nhiều đóng góp quan trọng trên cả ba lĩnh vực: dựng nước, giữ nước, mở nước.

Hội thảo thu hút trên 300 đại biểu là các nhà khoa học, chức sắc, nhà quản lý tôn giáo, cư sỹ, Phật tử, đại diện các tổ đình thiền phái Trúc Lâm và dòng họ Trần Việt Nam tham dự.

Hàng trăm người dân thuộc đủ mọi thành phần, dân tộc, lứa tuổi và đến từ rất nhiều vùng miền khác nhau trên cả nước đã có mặt trong khuôn viên khách sạn thương mại Uông Bí, Quảng Ninh, để theo dõi hội thảo “Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông - cuộc đời và sự nghiệp” qua màn hình lớn do phòng họp của khách sạn không đủ sức chứa.

“Sự quan tâm của người dân chứng tỏ sức hút to lớn của Vua Phật còn nguyên vẹn trong tâm trí người dân Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp của ngài là đề tài lớn để con cháu muốn đời sau khám phá, học hỏi”, Hòa thượng Thích Thanh Tứ, Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng ban tổ chức đại lễ tưởng niệm 700 năm ngày mất của Phật hoàng Trần Nhân Tông, nói.

Từ sáng sớm, trên một 100 Phật tử đến từ Hải Phòng, Bắc Giang có mặt tại thị xã Uông Bí để dự hội thảo. Dù nhà ở khá gần địa điểm tổ chức nhưng bác Lương Gia Sành, 85 tuổi, ở phường Thanh Sơn, thị xã Uông Bí, cũng tranh thủ đi sớm, tìm một chỗ ngồi tốt để tập trung lĩnh hội thêm những tư tưởng, triết lý của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Anh A Nính (Kon Tum) là một trong 46 thành viên của đoàn công chiêng Tây Nguyên có cơ duyên được chọn ra Bắc biểu diễn văn nghệ phục vụ đại lễ tưởng niệm 700 năm ngày mất của Phật hoàng Trần Nhân Tông (diễn ra vào sáng 27/11). Tranh thủ lúc không tập luyện, anh đến hội thảo để “tìm về cội nguồn, hiểu hơn về con người của đức Phật hoàng Trần Nhân Tông, vị sơ tổ của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử”.

Hơn 8h, hội thảo chính thức khai mạc. Tham dự có nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, nguyên Phó chủ tịch Quốc hội Trương Quang Được, nguyên Trưởng Ban Tư tưởng Văn hóa (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương) Nguyễn Khoa Điềm.

Trong lá thư gửi tới hội thảo, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: Trần Nhân Tông là một vị vua văn võ song toàn, Phật hoàng có nhiều đóng góp to lớn đối với dân tộc.

Mở đầu Hội thảo, Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm, Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP HCM, mở đầu hội thảo với nhận định: “Trần Nhân Tông là một hoàng đế đặc biệt, người có nhiều đóng góp quan trọng trên cả ba lĩnh vực: dựng nước, giữ nước, mở nước. Song điểm được coi là nổi bật nhất trong sự nghiệp, cuộc đời Trần Nhân Tông là việc sáng lâp ra phái thiền Trúc Lâm Yên Tử, dòng thiền của riêng người Việt”.

Theo Thượng tọa, thiền phái Trúc Lâm là sự kết hợp của bốn dòng thiền đã có mặt ở Việt Nam, thể hiện tinh thần và khả năng đoàn kết của nó. "Không chỉ là sự kết hợp của các dòng thiền ta còn có thể thấy giáo lý của thiền phái Trúc Lâm là sự kết hợp giữa triết học siêu nhân của Phật giáo với nhân sinh quan của Nho giáo và vũ trụ quan của Lão giáo, là sự thể hiện tư tưởng tam giáo đồng nguyên. Đặc biệt đây là thiền phái đầu tiên do chính là vị hoàng đế đứng đầu một đất nước, đã từng chiến thắng đội quân hung hãn nhất thế kỷ 13 sáng lập”, Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm phân tích.

Cũng theo Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm, nhắc tới thiền phái Trúc Lâm còn là nhắc tới tinh thần nhập thế của Phật giáo với tư tưởng hòa quang đồng trần. Đó là: “Phật giáo của mọi người, không hạn chế trong tăng sỹ cũng như trong chùa chiền. Ai cũng biện tâm được, không kể xuất gia hay tại gia. Ở giữa trần tục chứ không cần ở chùa, ở núi vẫn có thể vui với đạo". Tư tưởng trên làm cho đạo Phật mặc dù có giáo lý cao siêu thâm diệu nhưng vẫn có nền tảng quần chúng rộng rãi. Điều quan trọng hơn, sự ra đời của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã góp phần cổ vũ tinh thần người dân nước Việt về khả năng phát huy những giá trị văn hóa bản địa, văn hóa truyền thống và mở ra phong trào Phật học mới.

Tiến sỹ Nguyễn Hữu Nguyên, Viện nghiên cứu phát triển TP HCM, cho rằng, thời đại nhà Trần có hai đỉnh cao là tư tưởng Phật giáo và sức mạnh chống giặc ngoại xâm. Đời vua Trần Nhân Tông (1279-1293), nước Đại Việt hai lần đánh thắng quân Nguyên. Trong lễ mừng chiến thắng, Trần Nhân Tông ghi lại hai câu thơ: “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã/Sơn hà thiên cổ điện kim âu”. Tinh thần Phật giáo Việt Nam đặt “quốc gia xã tắc lên trên, lấy thân mình dẫn đạo” được hình thành. “Đỉnh cao của tư tưởng Phật giáo nhập thế đã thể hiện rất rõ ở vị vua đã đích thân hai lần đánh thắng quân Nguyên - Mông nhưng không màng danh lợi ở triều đình mà lui về chốn thanh cao để sáng lập thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, đó là giáo phái lớn nhất Việt Nam tồn tại cho đến ngày này”, tiến sỹ Nguyên khẳng định.

Cũng theo phân tích của ông Nguyên, nhìn từ góc độ chính trị, quyền lực, bên trong ông Vua Trần Nhân Tông có một ông Phật nhưng nhìn từ góc độ tôn giáo, bên trong ông Phật có một ông Vua. Nếu làm vua là nhà chính trị; tu hành là nhà đạo đức thì ở Trần Nhân Tông là sự hòa quyện cả hai trong một con người vĩ đại.

Từ cuộc đời và sự nghiệp của Trần Nhân Tông, một hạt nhân tiêu biểu của triều Trần, tiến sỹ Nguyên khái quát: “Tư tưởng Phật giáo thời Trần đã đạt đến độ cao siêu để có thể tìm thấy sự dung hòa với chính trị ở mục đích bảo vệ “quốc gia xã tắc”.

Đến từ xứ sở mặt trời mọc, Giáo sư, Hòa thượng Yoshimizu Daichi nhận xét: Trần Nhân Tông là một vị vua anh minh, sáng suốt, hiền từ, đã ẩn tu trên Yên Tử và trở thành vị tổ của thiền phái Trúc Lâm mang bản sắc dân tộc Việt Nam thuần túy.

Nghiên cứu Phật giáo hai nước, vị giáo sư, nhà sư Nhật này đưa ra một phát hiện khá thú vị: Vua Trần Nhân Tông, người Việt Nam, sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và Pháp Nhiên; người Nhật Bản sáng lập ra tịnh độ tông Nhật Bản là hai quốc bảo nhân gian, đã cống hiến cho nhân loại nói chung và Phật giáo nói riêng.

(Theo baodatviet.vn)


11-30-2008 09:23:13

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/07/2020(Xem: 8620)
Lễ Huý Kỵ Trưởng Lão Hoà Thượng Thích Như Huệ tại Tổ Đình Pháp Hoa, Nam Úc,Chủ Nhật 05/07/2020 (15/05/Canh Tý).
04/07/2020(Xem: 9407)
Bài viết này để bổ túc cho một băng video chủ đề Tuệ Trung Thượng Sỹ trên YouTube (1) do nhóm Wisdom Today thực hiện, trong đó Tiến sĩ Phật học Nguyễn Thúy Loan đã phỏng vấn Hòa Thượng Thích Phước Tịnh và bản thân người viết là Cư sĩ Nguyên Giác. Lý do bổ túc vì lời nói của người viết vốn vụng về, không có khả năng diễn ý minh bạch như chữ viết.
28/06/2020(Xem: 23737)
Bức tượng được sơn son thếp vàng, tạc hình ảnh một nhà vua mặc triều phục đang quỳ gập người, hai bàn tay cung kính mở rộng để trên mặt đất, còn bên trên lưng là một pho tượng Phật cao lớn ngồi trên tòa sen nằm đè lên.
25/06/2020(Xem: 5644)
Mùa Đại dịch 2020 này đã phá vỡ bao ước nguyện thầm kín nung nấu trong tôi . Đó là được đảnh lễ và tham vấn HT Thích Như Điển như lời Ngài hứa khả , sau khi tôi được chia sẻ vài cảm nghĩ của mình qua tác phẩm của Ngài “MỐI TƠ VƯƠNG CỦA HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA “. Những tưởng thời gian sẽ nhanh chóng trôi qua và cái ngày quan trọng ấy càng lúc càng đến gần hơn nhưng nay .... được thông báo sẽ được dời đến tháng 10/2021! Thật không ai có thể đoán được điều gì xảy ra vào năm 2020 này, và dường như Chư Hộ Pháp muốn tặng tôi một món quà ân thưởng để bù lại niềm hụt hẫng ấy và chắc chắn là để thưởng cho thiện niệm tôi luôn hướng về Ôn Phương Trượng như một danh Tăng và một điểm khá đặc biệt là không thể quên ngày sinh nhật Ngài khi đã hai lần chúc mừng Khánh Tuế ( 2018 -2019 ) . Chính vì thế khi xem lịch 28/6/2020 đúng là Khánh Tuế lần thứ 72 của Ngài bổng nhiên trong tôi ước nguyện đã khởi lên “ Bằng cách nào để viết hoặc một bài văn hay một bài thơ vào lúc này vừa có thể chúc mừng với tấ
25/06/2020(Xem: 8608)
HT tên thật là Phạm Văn Nghi, húy là Thượng Đồng Hạ Viên, tự là Thông Lợi, hiệu là Viên Đức. Sinh vào giờ Tỵ ngày 26 tháng chạp năm Nhâm Thân(1932). Quán làng Định Trung, xã An Định, Quận Tuy An, Tỉnh Phú Yên. Thân phụ của Hòa Thượng là cụ ông Phạm Giản. một bậc túc nho thời bấy giờ. Thân mẫu là cụ bà Ung thị Bình, một Phật tử thuần thành từ hồi bé. Ông nội của Hòa Thượng không những là một kẻ sĩ mà còn là một chiến sĩ trong phong trào Cần Vương kháng Pháp. Hòa Thượng chào đời và lớn lên ở Phú Yên một nơi địa linh nhân kiệt, không những vì đời đã sản sinh ra nhiều anh hùng liệt sĩ, mà về Đạo cũng là nơi đời đời nối tiếp xuất sinh nhiều vị Tăng tài kế truyền hoằng hóa giáo pháp của đức Thế Tôn. Non nước Phú Yên như phần nào nói cho ta điều đó. Ngoài dòng sông Ba yên bình chảy ra biển cả, Phú Yên còn có hai ngọn núi là là hòn Chuông và hòn Mõ, hình giống như hai pháp khí tu hành của nhà Phật , vì vậy vua Minh Mạng khi nói về đất Phú Yên đã khen ngợi:
20/06/2020(Xem: 9468)
Trưởng lão Hòa thượng thượng NGUYÊN hạ TỊNH tự LƯU THANH Đạo Hiệu NGÂN BÌNH. ( 1941-2020 ). Thuận thế vô thường thu thần viên tịch vào lúc 11h30 ngày 19 tháng 06 năm 2020 (nhằm ngày 28 tháng tư nhuận năm Canh tý). Trụ thế : 80 năm Hạ lạp : 55 năm Tang lễ được cử hành theo chương trình như sau: - Lễ cung thỉnh nhục thân nhập kim quan: vào lúc 17h00 ngày 20 tháng 06 năm 2020 (nhằm ngày 29 tháng 04 nhuận năm Canh tý). - Kim quan tôn trí tại Tổ Đình Trúc Lâm, Tp. Huế. - Lễ phụng tống kim quan nhập bảo tháp tại Tổ Đình Trúc Lâm cử hành vào lúc 6h00 ngày 24 tháng 06 năm 2020 (nhằm ngày 04 tháng 05 năm Canh tý).
10/06/2020(Xem: 6707)
Thân thế: Hòa Thượng Thích Minh Đạo, thế danh là Dương Văn Tam, Pháp danh Trừng Hữu, pháp tự Thiện Lộc, pháp hiệu Chơn Châu, sinh năm Quý Sửu 1913. Nguyên Quán tại Huyện Phú Quý ( thường gọi là đảo Phú Quý) Ngài theo song thân vào Xã Phan Rí Cửa, Quận Hòa Đa ( nay thuộc Huyện Tuy Phong) Tỉnh Bình Thuận để lập nghiệp.
26/05/2020(Xem: 8149)
Trước lúc nhập Niết bàn, đức Thế Tôn nói kinh Di giáo, tiên liệu cả hằng nghìn năm sau nên lời dạy của Ngài vô cùng thậm thâm vi diệu. Mỗi lời mỗi ý chứa đựng biết bao tình lý, mỗi lần đọc chúng ta nhận cảm trọn vẹn lời di giáo tha thiết của Ngài. Lời đi huấn của Hòa thượng Đôn Hậu để lại cho Thất chúng đệ tử mà có lẽ cũng cho tất cả chúng ta. Đến Linh Mụ không ai là không đọc lời Di Huấn này, kể cả những người không biết chữ cũng lắng tai nghe nhờ người khác đọc giúp. Điều đáng quan tâm là lời Di huấn này Hòa thượng viết từ năm 1988, bốn năm trước khi viên tịch, Ngài đã nhìn thấy rất rõ ràng những gì có thể xảy ra trong Tang lễ của Ngài và cần huấn thị lại cho minh bạch, và, cũng chính vì “Lời di huấn” này mà:
06/05/2020(Xem: 11628)
Tiểu sử Đức Đệ Nhất Tăng Thống GHPGVNTN – Đại Lão Hòa Thượng THÍCH TỊNH KHIẾT , Đệ nhất Tăng Thống - HT Thích Tịnh Khiết, Hòa Thượng thế danh là NGUYỄN VĂN KỈNH. Ngài sinh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão (nhằm ngày 17.12.1891)(1) tại làng Dưỡng Mong Thượng, tổng Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Nay là thôn Dưỡng Mong, xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của ngài là cụ Nguyễn Văn Toán, thân mẫu là cụ bà Tôn Nữ Thị Lý. Ngài là con thứ hai(2). Bào huynh là Hòa Thượng Trừng Hương – Tịnh Hạnh (chúng tôi chưa tìm thấy thế danh của ngài). Hòa Thượng Tịnh Hạnh sinh năm Kỷ Sửu, 1889; xuất gia năm Ất Tỵ, 1905; thọ Cụ-túc giới năm Canh Tuất, 1910; trụ trì chùa Tường Vân, Huế; viên tịch năm Quý Dậu, 1933.
06/05/2020(Xem: 18341)
Công đức hoằng khai nhiếp hóa của Ngài cao hơn núi cao Tấm lòng từ bi độ lượng của Ngài sâu hơn biển sâu Chữ nghĩa của trần gian làm sao phô diễn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]