Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trần Nhân Tông Vị Anh Hùng Dân Tộc Khai Sáng Tư Tưởng Phật Giáo Việt Nam

10/08/201100:56(Xem: 5771)
Trần Nhân Tông Vị Anh Hùng Dân Tộc Khai Sáng Tư Tưởng Phật Giáo Việt Nam


TRẦN NHÂN TÔNG
VỊ ANH HÙNG DÂN TỘC KHAI SÁNG TƯ TƯỞNG
PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Trần Lưu

Đã có 92 tham luận của chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước gửi đến cuộc hội thảo khoa học về cuộc đời và sự nghiệp của Đức vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông hôm qua 26-11, tại thị xã Uông Bí (Quảng Ninh).

Nội dung các tham luận tập trung vào những vấn đề: vua Trần Nhân Tông và thời đại; vua Trần Nhân Tông, người anh hùng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước; di sản văn hóa, tư tưởng thời Trần và của vua Trần Nhân Tông...

Bậc minh quân kỳ tài

Tại hội thảo, các tham luận đều tập trung làm rõ vua Trần Nhân Tông là một bậc minh quân kỳ tài, đã góp phần tô thêm trang sử vàng chói lọi của dân tộc thời nhà Trần nói riêng và dân tộc nói chung, với việc lãnh đạo quân dân 2 lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông (1285 và 1288), tạo lập đỉnh cao nền văn minh Đại Việt lúc bấy giờ.

Theo Thượng tọa Thích Quảng Tùng (Hải Phòng), vua Trần Nhân Tông đã được thừa hưởng một truyền thống quý báu yêu nước, thương dân, mến mộ thiền học từ ông nội là vua Trần Thái Tông và cha là vua Trần Thánh Tông.
Trong thời gian cầm quyền của mình, ông không những thể hiện là một nhà chính trị lý tưởng, nhà quân sự xuất sắc mà còn là một nhà ngoại giao, nhà kinh tế, nhà văn hóa lớn. Vua Trần Nhân Tông có nhiều biện pháp cải cách, phát triển nông nghiệp, thương mại và thủ công nghiệp, giúp người dân có đầy đủ cái ăn, cái mặc.

Ông cũng có nhiều bài thơ, văn bất hủ và lần đầu tiên các chiếu chỉ của triều đình không những đọc bằng tiếng Hán, mà còn phải đọc bằng tiếng Việt để mọi tầng lớp nhân dân đều hiểu biết. Trong chiến trận, vua đã luôn sát cánh với Trần Hưng Đạo để đốc quân, khi thắng trận bắt được tướng giặc và binh lính, Trần Nhân Tông đều cho tiếp đãi tử tế, cho thuyền, lương thực để về nước...

Nhiều tham luận đã phân tích khá kỹ các hoạt động ngoại giao có tính “chiến lược” do vua Trần Nhân Tông khởi xướng. Trong đó, chú trọng xây dựng mối quan hệ hòa bình với phương Bắc và phương Nam.
Từ đó góp phần nâng cao vị trí, vai trò của Đại Việt trong khu vực, đồng thời giữ vững chủ quyền, độc lập quốc gia. Sau này, khi đã xuất gia tu hành, chính ông đã chủ trương mai mối để gả con gái của mình là Huyền Trân Công chúa cho vua Chiêm là Chế Mân, từ đó mở mang thêm bờ cõi Đại Việt với 2 châu Ô và Lý.

Một số tham luận đã chứng minh, ngay cả lúc đang ở ngôi hoặc sau khi đi tu, vua không bao giờ xao lãng công việc triều chính, chăm lo cho dân cho nước tới giờ phút cuối cùng. Vua đã đi khắp nơi trong nước để dẹp bỏ quan dâm, quan tham khiến dân đói rách, lầm than cực khổ, đem 10 điều thiện và giới Bồ Tát giảng bày cho dân chúng làm theo, gia đình và xã hội nhờ đó được yên bình, bớt loạn lạc.

Với vai trò Thái thượng hoàng sau khi đã nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, ông vẫn luôn rất quan tâm, lo lắng đến đời sống thường ngày của người dân; thường xuyên thị sát, đốc thúc các hoạt động để phát triển kinh tế xã hội.

Khai sáng Phật giáo Việt Nam

Trong lá thư gửi đến hội thảo, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Trong thời đại nhà Trần, lần đầu tiên xuất hiện một vị vua – vua Trần Nhân Tông đã rời bỏ ngai vàng đi vào nhân dân, xuất gia tu hành đạo Phật, sáng tạo nên một trường phái Phật giáo mới – Phật giáo Việt Nam. Trần Nhân Tông đúng là một vị vua văn võ song toàn, một vị Phật hoàng có công lao to lớn đối với dân tộc”. Đây là quan điểm được hầu hết các tham luận tại hội thảo đề cập và đề cao.

Năm 41 tuổi, sau 14 năm ở ngôi vua và 5 năm làm Thái thượng hoàng, Trần Nhân Tông chính thức xuất gia tu hành tại chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử (Quảng Ninh), lấy đạo hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà, về sau đổi làm Trúc Lâm Đại Đầu Đà, kế thừa Huệ Tuệ Thiền Sư làm tổ thứ 6 của Sơn môn Yên Tử.

Về sau, Trần Nhân Tông đã đổi tên Sơn môn Yên Tử thành Trúc Lâm Thiền phái, tự mình làm Đệ nhất Tổ với mục đích quy tụ ý chí, sức mạnh của toàn dân tộc hướng về một thế giới tâm linh thuần thiện, thuần mỹ, từ đó hóa thành tinh thần đoàn kết của cả dân tộc Đại Việt. Ông là người duy nhất ở Việt Nam được gọi là Phật hoàng.

Các nhà nghiên cứu cho rằng, vua Trần Nhân Tông khéo léo và tài tình ở chỗ thống nhất được các thiền phái Phật giáo ở nước ta lúc bấy giờ thành một, để nước Đại Việt có một đạo Phật đủ tiềm lực tôn giáo (thiền phái Trúc Lâm), phát triển nội lực cá nhân và tập thể, có thể làm lợi ích cho bản thân mình và đồng loại, trong đó có lợi nhiều mặt cho quốc gia và xã hội.

Chính vì vậy, Đức vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông không chỉ được giới phật tử tôn thờ mà xã hội, lịch sử nước Việt Nam cũng ghi nhận và tôn vinh.

Hòa thượng Thích Thiện Nhơn (Phó Chủ tịch, kiêm Tổng thư ký Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam) khẳng định: Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do vua Trần Nhân Tông sáng lập là thiền giáo song hành, nên không những đã thể hiện trọn vẹn tinh thần Phật giáo Việt Nam, mà còn phù hợp ý chỉ chư Phật và lòng người. Qua đó, đã tạo nên sự đoàn kết, nhất trí toàn dân, thống nhất Phật giáo Việt Nam lúc bấy giờ.

Hòa thượng Thích Minh Thịnh (Hà Nội) cho rằng: Phật giáo Trúc Lâm là một nền Phật học độc lập, uy tín; tinh thần của nó là tinh thần quốc gia Đại Việt, là xương sống của nền văn hóa Việt Nam độc lập lúc bấy giờ. Nền Phật học do vua Trần Nhân Tông khởi xướng này tuy có tiếp nhận những ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa và Ấn Độ nhưng vẫn giữ được cá tính đặc biệt của mình. Đứng về phương diện tư tưởng, tổ chức, cũng như hành đạo, giáo hội Trúc Lâm có những nét độc đáo riêng, khiến cho nó chỉ có thể là một giáo hội Việt Nam, phục vụ người Việt, duy trì và bồi đắp căn tính Việt.

Đề cập đến vai trò của đạo Phật đối với xã hội Đại Việt thời nhà Trần, TS. Nguyễn Phương Chi (Viện Sử học) cho biết: Phật giáo thời Trần là một trong những yếu tố quan trọng của xã hội Đại Việt. Nó đóng vai trò thiết yếu trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Nó là sợi dây nối kết tình đoàn kết nhân dân với tầng lớp lãnh đạo đất nước. Hệ tư tưởng và những tác phẩm văn hóa Phật giáo là tinh hoa của quốc gia Đại Việt thời Trần và đến nay, nó là di sản văn hóa quý giá của dân tộc.
Phật giáo mà điển hình là giáo phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập, “với sức sống bền bỉ trong các tầng lớp nhân dân, tác động mạnh mẽ đến xã hội bởi các luân lý đạo đức, kêu gọi làm việc thiện, thương yêu người khác và tôn trọng phép nước... Trúc Lâm thiền phái đã trở thành uy lực thống nhất ý thức hệ toàn dân, trở thành nhân tố dệt nên tư tưởng và tính chất xã hội độc đáo, mang đậm tính dân tộc” – TS Nguyễn Phương Chi khẳng định.

Trần Lưu

(Sài Gòn Giải Phóng)
TRẦN NHÂN TÔNG
VỊ HOÀNG ĐẾ ĐẶC BIỆT TRONG LỊCH SỬ
trannhantong-tuongniem-05

Tại Hội thảo khoa học 700 năm ngày mất của Đức Vua Trần Nhân Tông, tổ chức tại Quảng Ninh, hôm nay, Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm, Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP HCM, nhận định, Trần Nhân Tông là một hoàng đế đặc biệt, người có nhiều đóng góp quan trọng trên cả ba lĩnh vực: dựng nước, giữ nước, mở nước.

Hội thảo thu hút trên 300 đại biểu là các nhà khoa học, chức sắc, nhà quản lý tôn giáo, cư sỹ, Phật tử, đại diện các tổ đình thiền phái Trúc Lâm và dòng họ Trần Việt Nam tham dự.

Hàng trăm người dân thuộc đủ mọi thành phần, dân tộc, lứa tuổi và đến từ rất nhiều vùng miền khác nhau trên cả nước đã có mặt trong khuôn viên khách sạn thương mại Uông Bí, Quảng Ninh, để theo dõi hội thảo “Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông - cuộc đời và sự nghiệp” qua màn hình lớn do phòng họp của khách sạn không đủ sức chứa.

“Sự quan tâm của người dân chứng tỏ sức hút to lớn của Vua Phật còn nguyên vẹn trong tâm trí người dân Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp của ngài là đề tài lớn để con cháu muốn đời sau khám phá, học hỏi”, Hòa thượng Thích Thanh Tứ, Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng ban tổ chức đại lễ tưởng niệm 700 năm ngày mất của Phật hoàng Trần Nhân Tông, nói.

Từ sáng sớm, trên một 100 Phật tử đến từ Hải Phòng, Bắc Giang có mặt tại thị xã Uông Bí để dự hội thảo. Dù nhà ở khá gần địa điểm tổ chức nhưng bác Lương Gia Sành, 85 tuổi, ở phường Thanh Sơn, thị xã Uông Bí, cũng tranh thủ đi sớm, tìm một chỗ ngồi tốt để tập trung lĩnh hội thêm những tư tưởng, triết lý của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Anh A Nính (Kon Tum) là một trong 46 thành viên của đoàn công chiêng Tây Nguyên có cơ duyên được chọn ra Bắc biểu diễn văn nghệ phục vụ đại lễ tưởng niệm 700 năm ngày mất của Phật hoàng Trần Nhân Tông (diễn ra vào sáng 27/11). Tranh thủ lúc không tập luyện, anh đến hội thảo để “tìm về cội nguồn, hiểu hơn về con người của đức Phật hoàng Trần Nhân Tông, vị sơ tổ của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử”.

Hơn 8h, hội thảo chính thức khai mạc. Tham dự có nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, nguyên Phó chủ tịch Quốc hội Trương Quang Được, nguyên Trưởng Ban Tư tưởng Văn hóa (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương) Nguyễn Khoa Điềm.

Trong lá thư gửi tới hội thảo, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: Trần Nhân Tông là một vị vua văn võ song toàn, Phật hoàng có nhiều đóng góp to lớn đối với dân tộc.

Mở đầu Hội thảo, Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm, Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP HCM, mở đầu hội thảo với nhận định: “Trần Nhân Tông là một hoàng đế đặc biệt, người có nhiều đóng góp quan trọng trên cả ba lĩnh vực: dựng nước, giữ nước, mở nước. Song điểm được coi là nổi bật nhất trong sự nghiệp, cuộc đời Trần Nhân Tông là việc sáng lâp ra phái thiền Trúc Lâm Yên Tử, dòng thiền của riêng người Việt”.

Theo Thượng tọa, thiền phái Trúc Lâm là sự kết hợp của bốn dòng thiền đã có mặt ở Việt Nam, thể hiện tinh thần và khả năng đoàn kết của nó. "Không chỉ là sự kết hợp của các dòng thiền ta còn có thể thấy giáo lý của thiền phái Trúc Lâm là sự kết hợp giữa triết học siêu nhân của Phật giáo với nhân sinh quan của Nho giáo và vũ trụ quan của Lão giáo, là sự thể hiện tư tưởng tam giáo đồng nguyên. Đặc biệt đây là thiền phái đầu tiên do chính là vị hoàng đế đứng đầu một đất nước, đã từng chiến thắng đội quân hung hãn nhất thế kỷ 13 sáng lập”, Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm phân tích.

Cũng theo Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm, nhắc tới thiền phái Trúc Lâm còn là nhắc tới tinh thần nhập thế của Phật giáo với tư tưởng hòa quang đồng trần. Đó là: “Phật giáo của mọi người, không hạn chế trong tăng sỹ cũng như trong chùa chiền. Ai cũng biện tâm được, không kể xuất gia hay tại gia. Ở giữa trần tục chứ không cần ở chùa, ở núi vẫn có thể vui với đạo". Tư tưởng trên làm cho đạo Phật mặc dù có giáo lý cao siêu thâm diệu nhưng vẫn có nền tảng quần chúng rộng rãi. Điều quan trọng hơn, sự ra đời của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã góp phần cổ vũ tinh thần người dân nước Việt về khả năng phát huy những giá trị văn hóa bản địa, văn hóa truyền thống và mở ra phong trào Phật học mới.

Tiến sỹ Nguyễn Hữu Nguyên, Viện nghiên cứu phát triển TP HCM, cho rằng, thời đại nhà Trần có hai đỉnh cao là tư tưởng Phật giáo và sức mạnh chống giặc ngoại xâm. Đời vua Trần Nhân Tông (1279-1293), nước Đại Việt hai lần đánh thắng quân Nguyên. Trong lễ mừng chiến thắng, Trần Nhân Tông ghi lại hai câu thơ: “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã/Sơn hà thiên cổ điện kim âu”. Tinh thần Phật giáo Việt Nam đặt “quốc gia xã tắc lên trên, lấy thân mình dẫn đạo” được hình thành. “Đỉnh cao của tư tưởng Phật giáo nhập thế đã thể hiện rất rõ ở vị vua đã đích thân hai lần đánh thắng quân Nguyên - Mông nhưng không màng danh lợi ở triều đình mà lui về chốn thanh cao để sáng lập thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, đó là giáo phái lớn nhất Việt Nam tồn tại cho đến ngày này”, tiến sỹ Nguyên khẳng định.

Cũng theo phân tích của ông Nguyên, nhìn từ góc độ chính trị, quyền lực, bên trong ông Vua Trần Nhân Tông có một ông Phật nhưng nhìn từ góc độ tôn giáo, bên trong ông Phật có một ông Vua. Nếu làm vua là nhà chính trị; tu hành là nhà đạo đức thì ở Trần Nhân Tông là sự hòa quyện cả hai trong một con người vĩ đại.

Từ cuộc đời và sự nghiệp của Trần Nhân Tông, một hạt nhân tiêu biểu của triều Trần, tiến sỹ Nguyên khái quát: “Tư tưởng Phật giáo thời Trần đã đạt đến độ cao siêu để có thể tìm thấy sự dung hòa với chính trị ở mục đích bảo vệ “quốc gia xã tắc”.

Đến từ xứ sở mặt trời mọc, Giáo sư, Hòa thượng Yoshimizu Daichi nhận xét: Trần Nhân Tông là một vị vua anh minh, sáng suốt, hiền từ, đã ẩn tu trên Yên Tử và trở thành vị tổ của thiền phái Trúc Lâm mang bản sắc dân tộc Việt Nam thuần túy.

Nghiên cứu Phật giáo hai nước, vị giáo sư, nhà sư Nhật này đưa ra một phát hiện khá thú vị: Vua Trần Nhân Tông, người Việt Nam, sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và Pháp Nhiên; người Nhật Bản sáng lập ra tịnh độ tông Nhật Bản là hai quốc bảo nhân gian, đã cống hiến cho nhân loại nói chung và Phật giáo nói riêng.

(Theo baodatviet.vn)


11-30-2008 09:23:13

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/04/2021(Xem: 6956)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
23/04/2021(Xem: 4753)
Hoà thượng Thích Từ Hương thế danh là Nguyễn Mạnh Trừng. Sinh ngày 20 tháng 6 năm 1928 tại thôn Vĩnh An, xã Mỹ Phong, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.Trong một gia đình phú nông. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Tiêm. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Chai pháp danh Nhật Cang. Từ lúc ra đời cho đến năm 1954, Hoà thượng ở tại quê nhà theo học tiểu học và sinh sống tại địa phương.
23/04/2021(Xem: 4565)
Hòa thượng Đạo hiệu Thích Thiện Duyên, thế danh Võ Đình Như, sinh ngày 20/10/1926 tại thôn Hội Vân, xã Cát Hiệp, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Ngài là con thứ 3 trong gia đình. Thân phụ và thân mẫu của Hòa thượng là cụ ông Võ Toản pháp danh Nhựt Toàn và cụ Bà Đặng Thị Chức pháp danh Diệu Phát. Gia đình Ngài có truyền thống Phật giáo thuần thành. Với túc duyên nhiều đời, từ nhỏ, Ngài thường được bà nội dẫn đến chùa làng tụng kinh niệm Phật. Gặp lúc Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Hòa từ chùa Trà Can, Tháp Chàm – Phan Rang về tổ chức lễ truyền Tam Quy Ngũ giới tại chùa Tịnh An, Phù Cát, Bình Định, Ngài sớm thọ Tam quy Ngũ giới trong dịp này.
11/04/2021(Xem: 8933)
Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni, Kính thưa tất cả quý Phật tử trong và ngoài nước, Thiền viện Trúc Lâm Đại Đăng xin trân trọng kính báo: Thượng Toạ Thích Tuệ Giác, Hội trưởng Hội Thiền Học Việt Nam Hải Ngoại, Viện trưởng Tổ Đình Thiền viện Trúc Lâm Đại Đăng, Đã viên tịch vào lúc 4:30 chiều Thứ Bảy ngày 10 tháng 4 năm 2021 (nhằm 29 tháng 2 năm Tân Sửu) Tại Thiền viện Trúc Lâm Đại Đăng, Quận hạt San Diego, CA, Hoa Kỳ. Trụ thế 62 năm, 31 Hạ Lạp Chương trình Tang Lễ của Thượng toạ Thích Tuệ Giác sẽ được kính báo trong thời gian sớm nhất. Chúng con nhất tâm xin cung thỉnh Chư Tôn Thiền Đức và mời gọi quý Phật tử cùng chung lòng cầu nguyện. Thay mặt BTC Tang Lễ xin được trân trọng kính báo. Tỳ kheo Thích Tuệ Tỉnh
31/03/2021(Xem: 4648)
Trễ hẹn trong tang lễ, rồi cúng 21 ngày và 49 ngày cố nhạc sĩ Hằng Vang ( 1936 – 2021 ), một số Anh Chị em cựu huynh trưởng giữ đúng lời hứa, rất uy tín, lòng tự dăn lòng rằng nhất định sẽ họp mặt để cùng nhau thắp cho vị nhạc sĩ nén hương tưởng nhớ, tri ân những dòng nhạc mà phần lớn đã theo chân nhiều thế hệ Gia Đình Phật Tử ( GĐPT ) và các đoàn thể thanh thiếu niên Phật giáo, nối tiếp nhau cho đến tận hôm nay. Và ngày đó phải là ngày cúng chung thất 49 ngày, nhất định không hẹn xa xăm nửa. Sau khi loại trừ nhiều trở ngại, cộng vào nh74ng thuận duyên chung, tất cả đã chọn ngày chủ nhật 21/03/2021 9 nhằm ngày mùng 9 tháng hai năm Tân Sửu vừa rồi
10/03/2021(Xem: 4928)
Cố Hòa Thượng thế danh Đặng Hữu Tường, pháp húy Nguyên Phước, tự Quang Thể, hiệu Đạt Minh; nối pháp đời 44 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 10 pháp phái Liễu Quán. Ngài lâm thế ngày 19 tháng 9 năm Nhâm Tuất (1922) tại làng An Hải, quận III (nay là phường An Hải, quận Sơn Trà), thành phố Đà Nẵng; chánh quán làng Quảng Lăng, xã Điện Nam, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Thân phụ Ngài là cụ ông Đặng Văn Vịnh (tức Nuôi) và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Ớt. Ngài là trưởng nam trong một gia đình có năm anh em gồm ba trai và hai gái. Năm lên 9 tuổi, thân phụ qua đời, từ đó mẫu thân một mình tần tảo nuôi con. Trong thời gian này, Ngài được mẫu thân gởi đến Thầy Tư Tri (Như Tín) – trụ trì chùa An Hải lúc bấy giờ – nhận cho nhập Chúng tu học.
10/03/2021(Xem: 7758)
Cư sĩ Quảng Hải Phan Trung Kiên sinh năm Nhâm Dần (1962) tại Phường Tân Thái, Quận 3, Đà Nẵng (nay là Phường Mân Thái), là người con thứ ba trong gia đình có 9 anh em (5 trai, 4 gái). Vượt biên cùng với Ba và 3 anh em trai vào tháng 6 năm 1981 và định cư đến Mỹ vào cuối tháng 3 năm 1982. Má và các em gái cùng em trai út vượt biên năm 1988 và cả gia đình sum họp tại Hoa Kỳ vào năm 1989.
01/03/2021(Xem: 26696)
Trang nhà Quảng Đức vừa nhận được tin buồn: Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ đã thuận thế vô thường, thâu thần viên tịch vào lúc 21 giờ 20 phút ngày Thứ Bảy 22/02/2020 nhằm ngày 29/01 Âm lịch năm Canh Tý, Phật lịch 2563 tại Chùa Từ Hiếu, Phường 1, Quận 8, Sài Gòn. Trụ thế: 93 năm. Chương trình tang lễ sẽ được công bố trong thời gian sớm nhất có thể. Chúng con thành kính nguyện cầu Đức Đại Lão Hòa Thượng Cao Đăng Phật Quốc và sớm tái sanh trở lại thế giới Ta Ba để tiếp tục công cuộc hoằng Pháp lợi sanh. Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật
23/02/2021(Xem: 5002)
Tin buồn Cư sĩ Đỗ Đình Đồng; Pháp danh: Chơn Trí đã an nhiên trút hơi thở tại Hoa Kỳ vào lúc 01 giờ 02 phút khuya ngày 17 tháng 2 năm 2021 (mồng 6 tháng giêng năm Tân Sửu). Hưởng thọ 76 xuân. Trong một cơn bạo bệnh, ông bị máu đông trong động mạch phổi. Bác sĩ cho ống thông vào để phá máu đông nhưng tim ông đã ngừng đập khiến ông phải thở bằng máy và đã an nhiên trút hơi thở cuối cùng sau một ngày một đêm trên máy thở. Ông ra đi đột ngột khi đang dịch dang dỡ một quyển sách khác về giáo lý đạo Phật. Ông thanh thản hồn nhiên trút hơi thở, không biểu hiện sự đau đớn, và có hiền thê, hiếu tử hiền tôn bên cạnh niệm Phật cầu nguyện.
03/02/2021(Xem: 19340)
Vừa qua nhóm ảnh Nhất Chi Mai thuộc tu viện Phước Hòa (Đồng Nai), được sự hướng dẫn của Thượng toạ Viện chủ đã đến Buôn Mê Thuột để quay những thước phim đầu tiên về nhạc sĩ Hằng Vang. Cùng với cố nhạc sĩ Lê Cao Phan, Bửu Bác... được xem như lớp tiền phong của dòng tân nhạc Phật giáo. Nhạc sĩ Hằng Vang tên thật là Nguyễn Đình Vang, sinh năm 1933 tại Huế. Trong hơn 60 năm sáng tác, ông có hàng trăm ca khúc về đề tài này, nổi bật nhất là ca khúc Ánh Đạo vàng (1958) đã thấm sâu vào lòng Phật tử suốt thời gian dài từ khi ra đời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]