Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trần Nhân Tông sở đắc giải thoát và tư tưởng Phật học

10/08/201100:51(Xem: 6020)
Trần Nhân Tông sở đắc giải thoát và tư tưởng Phật học


TRẦN NHÂN TÔNG
SỞ ĐẮC GIẢI THOÁT VÀ TƯ TƯỞNG PHẬT HỌC
Thích Chơn Thiện

Về cuộc đời và sự nghiệp lịch sử, giải thoát của vua Trần Nhân Tông, đã có nhiều công trình biên khảo: Trần Nhân Tông, thiền sư Việt Nam; Trần Nhân Tông, nhà văn hóa; Trần Nhân Tông, nhà thơ; Trần Nhân Tông, nhà quân sự; Trần Nhân Tông, nhà lãnh đạo lỗi lạc; Trần Nhân Tông, nhà tư tưởng...

Trong bài khảo luận ngắn này, người viết chỉ đề cập đến một số nét tiêu biểu về Tiểu sử, sở đắc giải thoát và Tư tưởng Phật học của Người.

Về tiểu sử

Dựa theo sử liệu của Nguyễn Lang trong Phật Giáo Việt Nam Sử Luận, tập I, NXB Văn học, Hà Nội 1994, và sử liệu trong Thơ văn Lý Trần, tập II, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội 1989, thì Người tên thật là Trần Khâm, sinh năm 1258; con cả của vua Trần Thánh Tông; năm 20 tuổi lên ngôi báu, hiệu Nhân Tông; năm 36 tuổi làm Thái thượng hoàng, nhường ngôi cho Anh Tông; năm 41 tuổi xuất gia; năm 51 tuổi, 1308, viên tịch ở am Ngọa Vân, núi Yên Tử.

Thiếu thời, Người đòi nhường địa vị Đông cung thái tử cho em để xuất gia. Người thông lãm nội và ngoại điển, học Phật từ nhỏ, học Thiền định dưới sự chỉ dẫn của Tuệ Trung Thượng Sĩ.

Người đã cùng tướng sỹ triều Trần hai lần đánh bại đoàn quân xâm lược Nguyên Mông (năm 1285 và năm 1288) - đoàn quân bách chiến bách thắng đã từng đánh bại nhiều nước ở châu Âu và Tống triều, Trung Quốc; là vị vua yêu nước, anh hùng, rất “thân dân”, đã thực hiện thành công đại đoàn kết dân tộc (triều đình và nhân dân), mở Hội nghị dân chủ Bình Than và Diên Hồng, chủ trương “Tam giáo đồng nguyên”, viết nên trang sử lẫy lừng của dân tộc, và cả thế giới đương thời. Người còn là nhà thơ, nhà văn hóa Việt Nam, là một nhân cách lớn của dân tộc.

Xuất gia, là tổ thứ sáu của thiền phái Yên Tử, và là sơ tổ dòng thiền Trúc Lâm, chủ trương thống nhất các thiền phái Phật Giáo tại Việt Nam (Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường) mang nét đặc thù Việt Nam, tích cực dấn thân vào xã hội xây dựng hưng vượng xứ sở bằng từ bi, trí tuệ và đạo đức của Phật giáo.

Người thường giảng dạy kinh, luận và đạo Thiền cho các Tăng sĩ, truyền bá Thập thiện giới cho quần chúng, khuyên dân từ bỏ các dị đoan, hủ tục, đề cao đạo đức Phật giáo.

Một lần Người vân du qua Champa thiết lập bang giao hữu nghị với vua Chiêm là Chế Mân, hứa gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân. Vua Chiêm đã dâng cho Việt Nam hai châu Ô và Rý (Thuận và Hóa) làm sính lễ.

Trần Nhân Tông đã biểu hiện rõ Người là một vị vua anh minh, một nhà lãnh đạo giỏi, một nhà tôn giáo tài ba, và là một thiền sư lỗi lạc.

Sở đắc giải thoát của Trần Nhân Tông

Rất khó có thể biết được sở đắc giải thoát của một người qua sự khảo sát bên ngoài, nhất là người ấy lại là Điều Ngự Giác Hoàng Nhân Tông. Càng khó hơn khi người biên khảo chưa từng trải nghiệm giải thoát (tâm và tuệ giải thoát). Điều duy nhất người biên khảo có thể đề cập là theo dấu các sự kiện biểu hiện thái độ sống, cung cách hành xử, và thi ca, kệ tán của Người để hình dung ra dòng vận hành tâm thức của Điều Ngự:

a) Là một thanh niên thông rõ nội và ngoại điển, hiếu học, hiếu từ, nhân ái, từng trốn khỏi hoàng cung xuất gia tầm đạo, xem ngôi báu như đôi dép cỏ, hẳn là đã có một nhân tố giải thoát hiện diện trong tâm thức người từ thơ ấu: nhân tố ấy đã giục Người vào nơi vắng vẻ, xa xôi của núi Yên Tử, đã giục tâm thức người vươn dậy hướng về ánh sáng núi rừng, rời xa vùng ngã tướng, ngã niệm, cấu uế, thị phi phiền não.

Đây là sự choàng tỉnh của tâm thanh tịnh thuộc Dục giới và Sắc giới - còn gọi là tịnh quang tâm của cõi Dục và cõi Sắc - cái tâm thức mở cửa đi vào thiền định, vào “tâm giải thoát”.

b) Năm 20 tuổi đăng quang, đã liền đi vào hai cuộc chiến chống ngoại xâm Nguyên Mông đầy ác liệt và gian khổ: đây là dịp để Người thể nghiệm sâu sắc cái vị đắng của sinh tử, vô thường, mộng mị của nhân tình thế thái, từ đó hào tâm trỗi dậy, tâm khoan dung trỗi dậy, và tâm từ bỏ danh sắc, lợi lộc trần thế trỗi dậy giục Người quyết định hướng sống xả ly của tự thân và xây dựng kỷ cương, đạo đức cho xã hội, như là sự kiện đại đế A-Dục (Asoka) thức tỉnh giữa trận chiến đẫm máu Kalinga, xứ Ấn vào thế kỷ thứ III trước Tây lịch kỷ nguyên, từ bỏ đao, kiếm dùng đạo đức Phật giáo để nhiếp dân.

c) Người được thân cận học hỏi giáo lý trí tuệ từ bậc thạc đức vô nhị thượng nhân Tuệ Trung Thượng Sĩ là nhân duyên lớn giúp Điều Ngự cắm rễ tâm thức vào sâu lòng đất giải thoát: Thượng Sĩ như là một bệ phóng an toàn đẩy phi thuyền Điều Ngự đi vào vùng trời giải thoát bao la, một thể cách giải thoát thực hiện trong đời sống chính trị, xã hội rất thiết thực, rất nhân bản và rất trí tuệ.

Đây là nhân duyên dẫn đến sự ra đời của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đậm đà sắc thái Việt Nam: “Sống đời vui đạo cứ tùy duyên” - cái tinh thần “tùy duyên nhi bất biến”, hay “dĩ bất biến ứng vạn biến”.

d) Chùa Hoa Yên ở trên vùng cao của núi Yên Tử. Chỉ cần ở đó Điều Ngự lên xuống núi đôi lần trong một tuần lễ thì đủ duyên để chứng nghiệm cái rã rời , hư ảo của thân tâm (ngũ uẩn) thành tựu công phu hành trì Tứ Niệm Xứ (thiền định Phật giáo), buông xả tự nhiên hết thảy vọng niệm, cấu uế tâm, thanh thản với núi rừng, và sản sinh ra các thi, kệ, tư tưởng cao vời.

Tất cả, ít nhất, bốn duyên nói trên là nhân tố xác định - hay dấu hiệu xác chứng - tất yếu sở đắc giải thoát rất sâu của Điều Ngự mà về sau Người đã ghi lại trong các thi, kệ cảm tác của Người.

e) Sở đắc giải thoát

Các nhân duyên trên là ánh sáng rọi vào thi, kệ của Người hầu có thể bắt gặp cấp độ tâm thức giải thoát mà Người đã trải nghiệm, như là:

- Trong một buổi “đại tham” ở chùa Sùng Nghiêm, Điều Ngự Giác Hoàng đã mở lời với bài kệ: “Thân như hơi thở qua buồng phổi/ Kiếp tựa mây luồn đỉnh núi xa/ Chim Quyên kêu rã bao ngày tháng/ Đâu phải mùa xuân dễ luống qua (Thân như hô hấp tỵ trung khí/ Thế tự phong hành lĩnh ngoại vân/ Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú/ Bất thị tâm thường không quá xuân).
(VNPGSL, ibid., tr 374)

Bài kệ ghi rõ một kinh nghiệm thiền quán về thân ngũ uẩn của con người: hành giả hành thiền cần thấy rõ nơi thân, tâm mình cái mỏng manh, vô thường, tạm bợ, không thật; những gì ở trên thân và ngoài thân là vô hộ, vô chủ, không thuộc về ta, không phải là ta, không thuộc về ai, không phải là ai.

Từ kinh nghiệm đó, tâm thức tự động rời xa dục vọng, sân hận, vị kỷ, xan tham, đố kỵ... mà giáp mặt với hân hoan, hỷ lạc, khinh an, thanh thản. Được vậy thì không uổng phí thời gian, tiếp tục nỗ lực, tinh cần thể nghiệm. Đây là lời lẽ nhắc nhở và đánh thức Tăng chúng đi vào thực nghiệm lời đức Phật dạy ở kinh Niết Bàn, phẩm Thánh hạnh, rằng: Chư hành vô thường/ Thị sinh diệt pháp/ Sinh diệt diệt dĩ/ Tịch diệt vi lạc.

Hai câu cuối bài kệ trên là chỗ về của người tu sỹ Phật giáo, là nội dung mà Bồ tát Tuyết Sơn (trong bản kinh) sẵn sàng đổi thân mình cho quỷ La Sát ăn thịt để được nghe. Đó cũng là sở đắc, sở chứng mà Điều Ngự Giác Hoàng muốn trao truyền cho các Tăng sỹ Việt Nam, đánh thức họ đi ra khỏi vùng tâm thức của ngã niệm, của các nghi vấn, thắc mắc nêu ra nhiều câu hỏi ách yếu về sự thật của nhân sinh và thế giới: Họ luôn luôn mong chờ các câu trả lời, các lời giải đáp về thế nào là Phật? Thế nào là Pháp? Thế nào là Tăng? Thế nào là gia phong của chư Phật, chư Tổ?...

Điều Ngự luôn nhấn mạnh vào 8 chữ “sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc”, nhắc nhở Tăng sỹ hãy quay trở về tự tâm mình để dập tắt các ngã tưởng, vọng tưởng ấy: Khi các ngã tưởng, ngã niệm được dập tắt thì các ngã tướng sinh diệt cũng bị dập tắt - đó là sự dập tắt sinh diệt, trong câu “sinh diệt diệt dĩ - thì tham ái, chấp thủ bị dập tắt theo: đây là thời điểm chứng nghiệm an lạc, giải thoát - điều mà kinh gọi là “Tịch diệt vi lạc” - Điều Ngự cứ mãi dồn Tăng sỹ vào một điểm duy nhất là: vấn đề trọng yếu là chứng nghiệm an lạc, giải thoát, mà không phải nói về, nghĩ về an lạc, không phải là hỏi hay trả lời! Đây cũng là kinh nghiệm tuyệt vời của Tuệ Trung Thượng Sĩ khi Thượng Sĩ bảo: “Đạo bất tại vấn, vấn bất tại đạo”.

Điểm trao truyền kinh nghiệm tâm thức giải thoát này của Điều Ngự Giác Hoàng và của Tuệ Trung Vô nhị Thượng Sĩ đích thị là linh hồn, là sức mạnh tinh thần (hay tâm linh) của Phật giáo đời Trần, của Phật giáo Lý-Trần, đỉnh cao của tư tưởng Phật giáo Việt Nam và tư tưởng Việt Nam vậy: lúc nào mà sức sống thiền định này chuyển vào tư thế yên nghỉ của tư tưởng và văn học thì Phật Giáo Việt Nam và Việt Nam đi vào suy yếu; ngược lại, khi nào tư tưởng và văn học Lý Trần chuyển hiện vào sự sống thì Phật Giáo Việt Nam và Việt Nam ắt hẳn đi vào hùng cường, hưng vượng.

- Ý nghĩa “sinh diệt diệt dĩ” là ý nghĩa “bất sinh bất diệt”, vốn là sự thật muôn thuở của vạn hữu: tất cả hiện hữu đang tồn tại bất sinh bất diệt trong vận hành của Duyên khởi, mãi mãi tồn tại như thế.

Chỉ có các ngã tướng do các ngã niệm, ngã tưởng ảo vọng của con người dựng nên là sinh diệt. Sự thật này thật sự đã được Điều Ngự Giác Hoàng chứng đắc lúc sinh tiền, và an trú vào sự thật đó cho đến thời điểm trút bỏ hơi thở sau cùng - giờ tý, ngày 21 tháng 10 âm lịch, năm 1308 - khi Người nói lên bài Kệ thị tịch giã từ Tăng chúng rằng: Mọi pháp đều không sinh/ Mọi pháp đều không diệt/ Nếu hiểu rõ như thế/ Thì thấy chư Phật thường hiện diện/ Có đi lại, sinh diệt gì đâu? (!) (Nhất thiết pháp bất sinh/ Nhất thiết pháp bất diệt/ Nhược năng như thị giải/ Chư Phật thường hiện tiền/ Hà khứ lai chi hữu?)
(VNPGSL, ibid, tr.395)

Tư tưởng Phật học, thái độ tự tại của Điều Ngự

Từ sở chứng, sở đắc về Định và Tuệ nói trên, qua từng giai đoạn đời sống, Điều Ngự Giác Hoàng đã biểu hiện mức độ uyên áo khác nhau qua thái độ sống và hành xử đầy khoan dung, nhân ái, dũng cảm, trí tuệ mà an nhiên tự tại:

- Lúc tại vị, Người là vị vua yêu nước, anh hùng, “thân dân”, đầy trách nhiệm và thể hiện tốt đẹp đại đoàn kết dân tộc.

- Lúc làm Thái thượng hoàng cũng vậy.

- Lúc tu hành xuất thế thì tự giác, giác tha, xây dựng một Giáo Hội PGVN có kỷ cương, có hồn, thống nhất tư tưởng và tổ chức các hệ phái. Người quan tâm đến việc giới thiệu một nếp sống đạo đức Phật giáo cho nhân dân, và cả việc giữ yên bờ cõi, thiết lập bang giao hữu nghị với Chiêm Thành.

Đời sống thì tự nhiên, tự tại, dung dị, đạm bạc. Người bảo: Niên thiếu chưa từng hiểu sắc, không/ Xuân đến, hoa sắc vướng tơ lòng/ Nay thì thấy rõ bộ mặt thật của chúa Xuân/ Người an nhiên ngắm đóa hồng nở, rụng (Niên thiếu hà tằng liễu sắc, không/ Nhất xuân, tâm sự bách hoa trung/ Như kim khám phá Đông Hoàng diện/ Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng)
(VNPGSL, ibid, tr.391)

Đấy là thái độ sống an nhiên của trí tuệ trước cảnh đời biến động, vô thường, hệt như thái độ của Nhiếp Chính Ỷ Lan thể hiện cẩm nang mà Lý Thánh Tông để lại từ kinh nghiệm sống giá trị rút ra từ Phật giáo: “Vạn biến như lôi, nhất tâm thiền định”.

Trong Cư trần lạc đạo phú, Điều Ngự xác nhận: “... Tranh công danh, lồng nhân ngã, thật ấy phàm ngu/ Xây đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí...” và “Sống đời vui đạo cứ tùy duyên/ Hễ đói thì ăn, mệt nghỉ liền/ Trong nhà có báu, đừng chạy kiếm/ Vô tâm đối cảnh, hỏi chi thiền?
(vô tâm đối cảnh = trước các sắc trần... tâm không khởi lên lòng tham, lòng sân, lòng si, không ưu bi, sợ hãi) -không dính mắc.

Đây cũng là hệ quả tất nhiên của sự thực hành Định, Tuệ Phật Giáo - nói đủ là Giới, Định, Tuệ.

Tại đây, chúng ta có thể mạnh dạn phát biểu rằng: tư tưởng, triết lý thời Lý, Trần (ở Việt Nam) là tư tưởng, triết lý sống, hay sống triết lý, mà không phải là triết lý thuần túy huyền đàm.

Chúng ta hãy tiếp tục lắng nghe “triết lý sống-sống triết lý” ấy của Điều Ngự khi Điều Ngự nói đến các vấn đề triết lý ách yếu xưa nay của Đông, Tây: Có có không không/ Giây khô cây ngã/ Thầy tu áo vá/ Nhức não, đau đầu (Hữu cú, vô cú/ Đằng khô, thụ đảo/ Kỷ cá nạp tăng/ Chàng đầu hạp não)

Có có không không/ Chẳng có chẳng không/ Ghi dấu mạn thuyền/ Sau nầy tìm kiếm (thanh kiếm)/ Theo bức tranh vẽ/ Đi tìm ngựa đẹp (Hữu cú, vô cú/ Phi hữu, phi vô/ Khắc chu cầu kiếm/ Sách ký án đồ)

Có có không không/ Từ xưa đến nay/ Chấp vào ngón tay/ Quên mất mặt trăng/ Chết đuối trên cạn (đất bằng) (Hữu cú vô cú/ Tự cổ tự kim/ Chấp chỉ vong nguyệt/ Bình địa lục trầm)

Có có không không/ Như thế, như thế/ Tám chữ mở xong/ Không còn gì quan trọng (Hữu cú vô cú/ Như thị, như thị/ Bát tự đả khai/ Toàn vô ba tỵ)
(ba tỵ là cái mũi lớn, ý nói vấn đề nổi bật, quan trọng; Tám chữ: Sinh diệt diệt dĩ. Tịch diệt vi lạc (phẩm Thánh Hạnh, Kinh Niết Bàn))
(VNPGSL, ibid., tr.382-385)

Các nhà tư tưởng xưa nay đều đi vào các tri kiến chủ trương thường hằng, đoạn diệt, vừa thường hằng vừa đoạn diệt, hoặc phi thường phi đoạn...

Các tri kiến ấy đều rơi vào ngã tưởng, ngã niệm cả khi nói đến chân như, tuyệt đối. Đó là hiện tượng ngỡ ngón tay chỉ mặt trăng là mặt trăng, hệt như tưởng rằng nói về thực tại, sự diễn đạt thực tại là thực tại.

Vấn đề là đi vào thực tại để thể nghiệm thực tại mà không phải là nói về hay nghĩ về. Nói khác đi, thực tại thì khác với triết lý, hoặc thực tại là triết lý siêu đẳng. Con đường sống của Điều Ngự Giác Hoàng quả là con đường triết lý siêu đẳng: con đường trở về chính mình để thể nghiệm ở tâm thức mình sự thật và hạnh phúc. Điều Ngự viết:

Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch/ Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền (Cư trần lạc đạo phú)

Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương/ Di-đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về cực lạc (Cư trần lạc đạo phú)

Đó là sự trở về với “dừng tham ái”,”lắng thị phi” và để tâm an nhàn, tịnh lạc: Mình ngồi thành thị/ Nết dùng sơn lâm/ Muôn nghiệp lặng, an nhàn thể tính/ Nửa ngày rỗi, tự tại thân tâm/ Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu, ngọc qúy/ Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt, oanh ngâm. (Cư trần lạc đạo phú)

Đó là sự trở về an trú vào giác tỉnh Tính Không (Chân không: Sunyatà), chứng ngộ thực tướng để không còn vướng bận, vướng mắc vào các quan điểm bộ phái Tiểu, Đại, Nam, Bắc, và không còn ngại tránh các thanh sắc trần thế, để “sống đời vui đạo”, tùy duyên mà xử sự: Hỏi phép chân không, hề chi lánh ngại thanh chấp sắc/ Biết chân như, tin bát nhã, chớ còn tìm Phật, Tổ Tây, Đông/ Chứng thực tướng, ngộ vô vi, nào nhọc hỏi kinh thiền Nam Bắc. (Cư trần lạc đạo phú).

Với sự trở về ấy thì mọi sự khác biệt về giai cấp, chủng tộc, màu da, quan điểm hay phái tính đều có đất thực tại nhân bản để gặp gỡ. Đấy là cái nhìn và thái độ sống rất trí tuệ Phật giáo nhằm giúp tự thân tự tại đi ra khỏi các vướng mắc, và giúp xã hội thực hiện được đại đoàn kết dân tộc, giáo hội thống nhất được các bộ phái làm sống dậy mạnh mẽ tiềm năng của dân tộc.

Nếu muốn nói thái độ sống đó của Điều Ngự là rất hiền triết, rất triết lý, rất tư tưởng, thì cần hiểu đó là triết lý rất riêng của Việt Nam gọi là Siêu vượt triết lý (Transcendental Philosophy) hay triết lý Nhân bản thực tại luận (Humanist Realism) vừa giải quyết Vấn đề giải thoát của nhân sinh, vừa giải quyết các vấn đề của quốc gia, xã hội.

Thế là, vào thế kỷ XIII (có thể nói từ thế kỷ XI) Việt Nam đã hình thành một hệ nhân sinh quan và vũ trụ quan rất riêng, mang đậm dấu ấn của trí tuệ và đạo đức Phật giáo của đức Phật Gotama.

Từ đầu thế kỷ XXI này, trước các khủng hoảng của các tư tưởng hệ, bao gồm tư tưởng khoa học, khủng khoảng môi sinh và đạo đức xã hội, triết lý nhân bản thực tại luận của Điều Ngự Giác Hoàng càng nổi bật nét đặc thù rất đáng được thời đại tham cứu. Điều Ngự và Trúc Lâm Yên Tử như đang tỏa sáng hơn bao giờ!

Thích Chơn Thiện

11-03-2008 04:55:24

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/09/2018(Xem: 7788)
Chúng tôi hổ thẹn mang nặng thâm ân 2 bậc Thầy lớn, đã để lại trong đạo nghiệp mình nhiều dấu ấn giáo dưỡng thâm trọng, dù cho có nghìn đời cố gắng cũng chưa thể báo đáp hết:
03/09/2018(Xem: 17392)
Nhiều lời Đức Phật dạy trong kinh điển có thể được nhìn thấy qua nhà thơ Bùi Giáng. Toàn thân Bùi Giáng chính là Khổ Đế hiển lộ qua cái được thấy. Tương tự, với Tập Đế. Nụ cười của Bùi Giáng chính là Đạo Đế hiển lộ an lạc qua cái được thấy. Tương tự, với Diệt Đế. Bùi Giáng đùa giỡn ca ngâm với lời lời ẩn nghĩa chính là diệu chỉ tâm không dính mắc của Kinh Kim Cang, hiển lộ qua cái được thấy và cái được nghe. Bùi Giáng đi đứng nằm ngồi giữa phố như không một nơi để tới chính là diệu chỉ sống với cái Như Thị của Kinh Pháp Hoa, hiển lộ qua cách thõng tay vào chợ. Bùi Giáng viết xuống chữ nghĩa xa lìa có/không, dứt bặt đúng/sai, hễ viết xuống là gửi vào tịch lặng bờ kia chính là diệu chỉ gương tâm rỗng rang của Bát Nhã Tâm Kinh. Đó là hình ảnh nhà thơ Bùi Giáng trong tâm tôi nhiều thập niên qua.
23/08/2018(Xem: 6258)
Tôi thật may mắn được biết đến và là học trò của Hòa thượng Thích Minh Châu. Tôi có may mắn lớn này là nhờ bác Vũ Chầm, Chủ tịch VinaGiày, một tấm gương sáng về tu tập và phụng sự. Thế rồi mỗi lần từ Hà Nội vào Sài Gòn là tôi thường tìm mọi cách đến thăm Thầy. Mỗi lần được bên Thầy là một cơ hội được học hỏi, được dạy dỗ và chỉ bảo, được nhận năng lượng và bình an.
23/08/2018(Xem: 8368)
Thường trực BTS GHPFVN tỉnh Khánh Hòa vừa ký Cáo phó kính tiếc báo tin HT.Thích Đức Lưu, Ủy viên Ban Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, Trưởng BTS GHPGVN huyện Cam Lâm, Ủy viên Ban Tăng sự Phật giáo tỉnh, trụ trì chùa Pháp Vân tân viên tịch. Theo cáo phó, HT.Thích Đức Lưu do bệnh duyên.đã thuận thế vô thường, thâu thần viên tịch vào lúc 18 giờ, ngày 21-8-2018 (11-7-Mậu Tuất) tại chùa Pháp Vân, xã Cam Hòa, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa . Trụ thế 64 năm, hạ lạp 42 năm. Lễ nhập kim quan lúc 15g, ngày 22-8-2018 ( 12-7-Mậu Tuất), kim quan được tôn trí tại chùa Pháp Vân Lễ viếng bắt đầu từ 8 g, ngày 23-8-2018. Lễ tưởng niệm vào lúc 14g, ngày 25-8-2018 (nhằm 15-7-Mậu Tuất), sau đó 15g phụng tống kim quan nhập bảo tháp trong khuôn viên chùa Pháp Vân, Cam Lâm.
23/08/2018(Xem: 11755)
Hòa thượng Thích Quảng Độ trả lời phỏng vấn tiếng anh chia sẻ với Phật tử thế giới
18/08/2018(Xem: 5779)
Lễ Huý Nhật Lần thứ 1 Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Thủ Thích Tâm Châu tại Chùa Phật Quang, Victoria, Úc Châu. Thứ Bảy, 18-8-2018 Chương Trình Lễ Huý Nhật: - Cung thỉnh chư Tôn đức Tăng Ni quang lâm - Cung An Chức Sự (NS Thích Nữ Chân Kim) - Nghi cúng tiến Giác Linh Đức Trưởng lão Hòa Thượng - Lễ Chào Phật Giáo Kỳ và một phút nhập Từ Bi Quán - Tuyên bố lý do và giới thiệu chư Tôn Đức tham dự ( MC TT Thích Nguyên Tạng) - Cung tuyên Tiểu Sử Cố Trưởng Lão Hòa Thượng ( TT Thích Tâm Phương - Lời Đạo Tình của Trưởng Lão HT Thích Huyền Tôn, Phó Thượng Thủ GHPGVNTTG, Tăng Giáo Trưởng GHPGTNHNUĐLTTL Viện Chủ Chùa Bảo Vương - Lời tưởng niệm về Đức Trưởng Lão HT Thích Tâm Châu ( HT Thích Tịnh Đạo) - Dâng hoa cúng dường Giác Linh Đức Trưởng Lão Hòa Thượng - Ngâm thơ của Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Truy niệm Giác Linh. (Phật tử Tuệ Minh) - Cảm Tạ của ban tổ chức. (ĐĐ Thích Chân Phong) - Cúng Dường Trai Tăng và hoàn mãn.
15/08/2018(Xem: 7789)
Nếu chúng ta từ phương diện thư tịch nhìn về quá trình du nhập và phát triển Phật giáo tại Việt Nam, cho thấy số lượng kinh sách trước tác hay dịch thuật của người Việtquá ư khiêm tốn,nội dung lại thiên về thiền họcmang đậm nét cách lý giải của người Hoa về Phật học Ấn Độ, như “Khóa Hư Lục”, “Thiền Uyển Tập Anh” (禪苑集英), “Thiền Tông Chỉ Nam”, “Thiền Tông Bản hạnh”…Điều đó minh chứng rằng, Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng khá sâu nặng cách lý giải Phật học của người Hoa. Nguyên nhân nào dẫn đến sự ảnh hưởng này, theo tôi ngoài yếu tố chính trị còn có yếu tố Phật giáo Việt Nam không có bộ Đại tạng kinh bằng Việt ngữ mang tính độc lập, để người Việt đọc hiểu, từ đó phải dựa vào sách của người Hoa, dẫn đến hiểu theo cách của người Hoa là điều không thể tránh. Nếu thế thìchúng ta nghĩ như thế nào về quan điểm độc lập của dân tộc?Tôi có cảm giác như chúng ta đang lúng túng thậm chí mâu thuẫngiữa một thực tại của Phật giáo và tư tưởng độc lập của dân tộc.
13/08/2018(Xem: 6853)
Cách đây hơn một tuần, trong khi tìm kiếm tài liệu để viết lại tiểu sử tóm tắt của Ni Sư Thích Nữ Giới Hương với các chi tiết chọn lọc, cần thiết, đã được cập nhật,theo ý của chúng tôi. Chúng tôi mới bỗng nhớ ra rằng: Năm 1978, lúc Ni Sư mới 15 tuổi, Ni Sư xuất gia với Sư Bà Hải Triều Âm (Đại Ninh - Việt Nam). Như vậy, tính đến năm 2018 này, là năm kỷ niệm 40 NĂM XUẤT GIA CỦA NI SƯ THÍCH NỮ GIỚI HƯƠNG. Tuy mới biết và được hầu chuyện Ni Sư chỉ năm mười phút ngắn ngủi tại Chùa Hương Sen, rồi sau đó đọc một số tác phẩm, những bài pháp luận, thuyết trình… của Ni Sư. Chỉ ngần ấy thôi, nhưng chúng tôi vẫn luôn lưu giữ cái cảm nhận rất chân thành và nghiêm túc này: Rằng Ni Sư Thích Nữ Giới Hương là người rất mực khiêm cung, suy nghĩ cẩn mật. Rằng Ni Sư là người kiên tâm trì chí tu học và hành Đạo suốt 40 năm ấy; Rằng Ni Sư Thích Nữ Giới Hương là “Người gieo duyên Phật pháp, gieo duyên Đạo”* không ngừng nghỉ và không biết mỏi mệt. Và rất nhiều đức khác mà chúng tôi kính trọng, ngưỡng vọng
11/08/2018(Xem: 7799)
Hòa Thượng Thích Huyền Tôn: Chúc thọ Đức Đại Thụ Tăng Thống Thích Quảng Độ. Cung Kính Chúc Thọ Đại Thụ Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ Trí Lực câu viên Đạo Lực Tu Di ! Úc Châu Tiểu đệ HT Thích Huyền Tôn (91 tuổi).
03/08/2018(Xem: 24886)
Hòa Thượng Thích Minh Tuyền vừa viên tịch tại Nhật Bản, Hòa Thượng THÍCH MINH TUYỀN thế danh LÊ MINH TUYỀN sanh ngày 08 tháng 09 năm 1938 (Mậu Dần), tại thôn Bình Hội, thị trấn Chợ Lầu, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Xuất gia năm 7 tuổi (Năm Ất Dậu (1945) tại Chùa Bửu Tích thuộc thôn Bình Liêm, xã Phan Rí Thành, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Năm 1970, HT đến du học tại Nhật Bản và lưu trú đến ngày nay. Vì tuổi cao sức yếu, Nài đã thuận thế vô thường viên tịch vào lúc 3giờ 35 phút sáng ngày 22 tháng 08 năm 2017 (nhằm ngày 01 tháng 07 nhuần năm Đinh Dậu), trụ thế 80 năm, 60 hạ lạp. Chương trình Tang Lễ của Hòa Thượng Tân Viên Tịch sẽ được công bố trong thời gian sớm nhất. Ngưỡng mong Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni và Quý Đồng Hương Phật Tử gần xa nhất tâm cầu nguyện Giác Linh Tân Viên Tịch Thích Minh Tuyền Cao Đăng Phật Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]