Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trần Nhân Tông - Vị hoàng đế được tôn làm Phật

23/10/201008:09(Xem: 4549)
Trần Nhân Tông - Vị hoàng đế được tôn làm Phật

TRẦN NHÂN TÔNG
VỊ HOÀNG ĐẾ ĐƯỢC TÔN LÀM PHẬT

Giao Hưởng

Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.

Vua Trần Nhân Tông (Trần Khâm) sinh ngày 11.11.1258. Khi sinh ra “màu da sáng như màu vàng ròng, vì thế vua cha là Trần Thánh Tông mới gọi ngài là: Kim Phật. Bên vai phải của ngài có một nốt ruồi đen to như hạt đậu, những thức giả thời ấy tiên đoán về sau thế nào ngài cũng gánh vác việc lớn” (theo Thánh đăng ngữ lục).

Năm lên 16 tuổi (1274), Trần Nhân Tông được sắc phong làm hoàng thái tử, nghĩa là sau này sẽ nối ngôi, nhưng Trần Nhân Tông đã từ chối, hai lần thưa với Thánh Tông xin được nhường lại cho em mình là Đức Việp.

Song vua cha không đồng ý, lại “cưới trưởng nữ của Nguyên Từ quốc mẫu cho ngài làm vợ”. Vào một đêm nọ, ngài trốn ra khỏi cung điện, định lên núi Yên Tử để đi tu như cuốn Thiền Tông bản hạnh lược kể: Thái tử lòng muốn tu hành. Nhìn xem phú quý trong lòng nhưng nhưng. Tuy ở điện bệ Đông cung. Lòng hằng giữ nhớ tôn phong nhà thiền.

Hay tin ngài rời hoàng cung vào nửa khuya, vua Thánh Tông và quần thần sai người đi khắp nơi tìm kiếm. Bất đắc dĩ ngài phải trở về lên ngôi hoàng đế năm 21 tuổi (1279). Tuy ở ngôi vị cao nhất nhưng ngài vẫn tự mình giữ thanh tịnh. Cứ mỗi ngày, sau giờ nhóm triều, ngài đều đến chùa Tư Phước được xây trong đại nội để tĩnh tâm, tu học.

Một buổi trưa, ngài đang nằm mơ màng, thấy một bông sen vàng to như bánh xe mọc lên từ rốn của mình, trên hoa sen ấy có đức Phật đang phóng hào quang và một người đứng bên cạnh hỏi ngài có biết đức Phật này chăng. Đó là đức Phật Biến Chiếu.

Thức dậy ngài kể lại cho vua cha nghe, Thánh Tông rất hoan hỉ xem đó là giấc mộng cát tường hiếm thấy. Từ đó, ngài càng để tâm tham học về thiền với người thầy của mình là Thượng Sỹ Tuệ Trung.

Gặp khi giặc Nguyên sang xâm lăng, ngài lãnh đạo tướng sĩ và toàn dân đánh đuổi, giữ vững cõi bờ, như câu đối ở chùa Hoa Yên trên Yên Tử nhắc đến: Dẹp giặc độ chúng sinh làm vua, làm Phật. Dạy dân tu thiền giáo yêu đạo, yêu đời.

Đến năm 35 tuổi (1293), ngài nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, nhưng vẫn ở lại cung điện trong sáu năm để giúp Anh Tông cùng lo việc nước và chuẩn bị xuất gia. Khi thấy nền trị quốc của triều đình đã vững vàng, ngài mới quyết định rời khỏi hoàng cung, dứt áo ra đi vào tháng 10 năm Kỷ Hợi (1299) để lên núi Yên Tử tu khổ hạnh, lấy hiệu là Hương Vân đại đầu-đà.

Truyền bá thiền tông Trúc Lâm

Đến 5 năm sau (Giáp Thìn 1304), ngài xuống núi lúc 46 tuổi, đi khắp nơi để khuyên dân chúng hãy dẹp bỏ những miếu thờ thần quá sức mê tín, huyền hoặc (dâm từ), chỉ cho mọi người thực hành mười điều lành (thập thiện) và vào hoàng cung để truyền giới (Bồ Tát tại gia) cho các vương công bá quan theo lời thỉnh cầu của hoàng đế Anh Tông.

Trước và trong cùng thời gian đó, ngài xây chùa, mở tịnh xá, giảng giải đường lối tu tập để tiếp độ tăng chúng bốn phương, lập giảng đường ở chùa Phổ Minh (phủ Thiên Trường), lập am Tri Kiến (trại Bố Chính)...

Nhưng quan trọng hơn cả là sự kiện xiển dương đạo pháp, gióng trống hội để bắt đầu truyền bá thiền tông Trúc Lâm ở chùa Sùng Nghiêm.

Đây là sự kiện trọng đại trong lịch sử Phật giáo Việt Nam đã được ghi lại qua tài liệu Thánh đăng ngữ lục mà hòa thượng Thích Thanh Từ - người đang phục hồi mạng mạch của thiền phái Trúc Lâm tại Việt Nam hiện nay - trích dịch như sau: “Ngài (Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông) chống gậy đến chùa Sùng Nghiêm ở núi Linh Sơn để truyền bá thiền tông. Mở đầu pháp hội, ngài niêm hương báo ân xong, bước lên tòa.

Vị thượng thủ bạch chùy (đánh bảng mời ngài khai hội), ngài nói: Thích Ca Văn Phật vì một đại sự mà xuất hiện giữa cõi đời này, suốt 49 năm chuyển động đôi môi (thuyết pháp) mà chưa từng nói một lời. Nay ta vì các ngươi lên ngồi trên tòa này, biết nói chuyện gì đây?

(Nói rồi) ngài ngồi giây lâu, ngâm (mấy câu sau): Thân như hơi thở ra vào mũi. Đời giống mây trôi đỉnh núi xa. Tiếng quyên từng chập vầng trăng sáng. Đâu phải tầm thường qua một xuân.

(Ngâm xong) ngài vỗ bàn một cái, nói: Không có gì sao? Ra đây! Ra đây! Có vị tăng bước ra hỏi: Thế nào là Phật? Ngài đáp: Nhận đến (thấy biết) như xưa đều chẳng phải! (Lại hỏi): Thế nào là pháp? Ngài đáp: Nhận đến như xưa đều chẳng phải! (Lại hỏi): Thế nào là tăng? (ngài cũng đáp): Nhận đến như xưa đều chẳng phải!”.

Tiếp đó, buổi giảng tiếp tục với cuộc đối thoại thiền giữa ngài với các thiền sinh mà học giả Lê Mạnh Thát nhận định: “Có thể nói đây là buổi giảng đầu tiên trong lịch sử (thiền Việt Nam) được ghi chép lại đầy đủ, cung cấp cho ta một điển hình về sinh hoạt diễn giảng của Phật giáo Việt Nam thế kỷ thứ 13 (...)."

Một buổi giảng khác tại viện Kì Lân vào ngày mồng 9 tháng giêng năm Bính Ngọ (1306) đã được ghi lại trong Tam tổ thực lục (với những lời khai thị của ngài Trần Nhân Tông) như sau: “Này xem, đạo lớn trống rỗng, đâu buộc đâu ràng, bản tính sáng trong, chẳng lành chẳng dữ. Bởi do chọn lựa, lắm ngả sinh ngang, một nháy thoáng mờ dễ thành trời vực. Thánh phàm cùng chung một lối, phải trái há được phân ranh. (...) lỗ mũi thẳng xuống cửa mặt, lông mày vắt ngang hố mắt, há dễ tìm thấy được đâu? Nên hãy đi tìm cái đạo không thấy...”.

Những buổi pháp thoại ấy diễn ra đúng theo tinh thần của truyền thống thiền tông.

Những ngày cuối đời

Những ngày cuối đời của ngài Trần Nhân Tông đã được hòa thượng Thích Thanh Từ trích lược dưới đây:

Đến đêm 1 tháng 11 năm Mậu Thân (1308) trời trong sao sáng, ngài hỏi Bảo Sát:

- Hiện giờ là giờ gì?

Bảo Sát bạch:

- Giờ Tý.
Ngài lấy tay vén màn cửa sổ nhìn xem, nói:

- Đến giờ ta đi.

Bảo Sát hỏi:

- Tôn đức đi đến chỗ nào?

Ngài nói kệ đáp:

- Tất cả pháp chẳng sinh
Tất cả pháp chẳng diệt
Nếu hay hiểu như thế
Chư Phật thường hiện tiền.

(Nhất thiết pháp bất sanh
Nhất thiết pháp bất diệt
Nhược năng như bị giải
Chư Phật thường hiện tiền).
Nào có đến đi ấy vậy.

Bảo Sát hỏi:

- Chỉ khi chẳng sinh chẳng diệt là thế nào?

Ngài liền nhằm miệng Bảo Sát tát cho một cái, nói:

- Chớ có mớ.

Nói xong ngài bèn nằm như sư tử lặng lẽ mà tịch, nhằm niên hiệu Hưng Long thứ mười sáu (1308), thọ 51 tuổi. Theo lời di chúc của ngài, tổ kế vị là Pháp Loa đã làm lễ hỏa táng, thu lượm ngọc xá lợi năm màu và xây tháp ở chùa Vân Yên (vua Lê Thánh Tôn về sau đổi tên chùa là Hoa Yên) trên núi Yên Tử để thờ. Vua Trần Anh Tông dâng tôn hiệu là: Đại thánh Trần triều Trúc Lâm đầu đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật.

Ngài để lại một số tác phẩm, nhiều ngữ lục, chỉ thẳng tâm người, tự tu tự chứng, như ngài dạy: không thể nhờ ai cởi dây phiền não cho mình, mà phải tự mình nhận ra thanh tịnh và hạnh phúc nơi mình: Thùy phược cánh tương cầu giải thoát. Bất phàm hà tất mích thần tiên (nghĩa là: Ai trói lại mong cầu giải thoát. Chẳng phàm nào phải kiếm thần tiên).

Giao Hưởng
(Thanh Niên)

Bài kệ kết thúc
Cư trần lạc đạo phú của Trần Nhân Tông

Cư trần lạc đạo thả
tùy duyên,
Cơ tắc xan hề khốn
tắc miên,
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,
Đối cảnh vô tâm mạc
vấn thiền.

Dịch nghĩa:

Ở trần vui đạo hãy
tùy duyên,
Đói đến thì ăn nhọc
ngủ liền,
Trong nhà có báu thôi
tìm kiếm,
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.

ĐĂNG BẢO ĐÀI SƠN

Địa tịch đài du cổ
Thời lai xuân vị thâm
Vân sơn tương viễn cận
Hoa kính bán tình âm,
Vạn sự thủy lưu thủy
Bách niên tâm ngữ tâm
Ỷ lan hoành ngọc địch
Minh nguyệt mãn hung khâm.
(Thơ Trần Nhân Tông)

Dịch nghĩa:

LÊN NÚI BẢO ĐÀI

Đất vắng đài thêm cổ
Ngày qua xuân chửa nồng.
Gần xa mây núi ngất
Nắng rợp ngõ hoa thông.
Muôn việc nước trôi nước
Trăm năm lòng nhủ lòng.
Tựa lan, nâng ống sáo
Đầy ngực ánh trăng lồng.
(Ngô Tất Tố)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/06/2013(Xem: 6987)
Tôi gặp Hòa thượng Nguyên Lai cũng nhờ Ni sư Nguyên Thanh (mà nay là Pháp vị Ni Trưởng Thích Nữ Nguyên Thanh, đương kim Viện chủ chùa An Lạc, San Jose). Trước tiên là cám ơn Ni trưởng Nguyên Thanh hằng năm cung thỉnh chúng tôi về chứng minh, thuyết giảng hầu hết những Đại lễ mà đặc biệt là vía đức Phật Di Đà. Kể từ khi Giáo chỉ số 9 ra đời, thì chúng tôi không còn diễn giảng hay chứng minh bất cứ một lễ nào nữa
05/06/2013(Xem: 14119)
Tôi vẫn thích thú và nhớ mãi cái thuở mới chân ướt chân ráo vào Chùa sinh hoạt, nhận lãnh công việc “gõ đầu trẻ” cho đám học sinh trường Việt ngữ Bồ Đề của Tu Viện Quảng Đức do Thầy Tâm Phương thành lập ...
05/06/2013(Xem: 9021)
Hàng ngàn Tăng Ni và Phật đang cung thỉnh chân dung Pháp tượng của Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang tiến về Chánh Điện. Hàng ngàn Tăng Ni và Phật đang cung thỉnh chân dung Pháp tượng của Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang tiến về Chánh Điện ...
01/06/2013(Xem: 6268)
Cái khó nhứt của tôi là viết về cha tôi , một người rất nổi tiếng trong giới nghiên cứu nhạc Việt Nam và Á châu . Nếu viết khen nhiều hơn chê thì thiên hạ sẽ cho là thiên vị, là người trong nhà khen lẫn nhau . Dù ai có muốn nói gì, nghĩ gì, đối với tôi không quan trọng . Tôi viết về cha tôi cũng như tôi đã viết về nhiều nhạc sĩ, ca sĩ khác . Tôi chỉ ghi những gì tôi biết về cha tôi với một cái nhìn khách quan tối đa . Nhân dịp Lễ Các Người Cha (Father's Day), tôi ghi lại một số hình ảnh của một người cha, một người thầy và một nhà nghiên cứu âm nhạc đã mang lại cho nền âm nhạc Việt Nam những hào quang rực rỡ chói sáng trên thế giới mà chưa có ai có thể làm được cho tới ngày hôm nay.
30/05/2013(Xem: 10764)
Trong suốt gần hai nghìn nămhiện diện trên quê hương, chưa bao giờ Phật giáo Việt Nam phải đối diện vớinhững đe dọa và thách thức trầm trọng như trong gần bốn mươi năm giữa thế kỷthứ 20. Đó là giai đoạn mà Phật giáo phải chịu tác động của 3 cuộc khủng hoảnglớn
25/05/2013(Xem: 14099)
Những sự kiện nổi bật nơi Thầy Minh Phát mà chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử quen biết xa gần đều rất khó quên : Nơi các Đại giới đàn, Thầy là vị dẫn lễ thân kính của các giới tử; nơi các đàn chẩn tế trong những ngày lễ hội lớn, Thầy là vị sám chủ uy nghiêm và gây ấn tượng mạnh trong lòng đai chúng; nơi các bịnh nhân, Thầy là vị lương y kỳ diệu, với một chai nước mát Thầy đọc vài câu Kinh ngắn chú nguyện, người bịnh mang về uống là có thể hết bịnh (đã có nhiều người hết bịnh nhờ uống những chai nước mát của Thầy cho); nơi các Tổ đình lớn, trong một số ngày lễ hội, khi cần - thầy là người “đầu bếp tài ba” v.v…
12/05/2013(Xem: 4327)
Lời Người Dịch: Hồ sơ này đã giải mật theo luật Hoa Kỳ -- tuy vẫn còn xóa trắng 2 dòng ở trang 1, và xóa trắng hai trang 3 và 4 -- sẽ cho thấy cách nhìn từ chính phủ Mỹ về tình hình Việt Nam trong thập niên 1960s. Hồ sơ này cho thấy đánh giá từ phía tình báo Hoa Kỳ về Thầy Thích Trí Quang và hoạt động của Phật Giáo VN trong năm 1966, tức là ba năm sau khi Hòa Thượng Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân. Một vài đánh giá trong bản văn này bây giờ đã thấy là không chính xác, khi Mỹ dựa vào suy đoán để gán ghép một mục tiêu chính trị nào đó cho một hay nhiều vị sư. Tuy nhiên, bản văn này cho thấy cái nhìn từ phía tình báo Hoa Kỳ đối với Phật Giáo trong tình hình lúc đó đang gay gắt, và sẽ chiếu rọi thêm một phần vào lịch sử phong trào Phật Giáo.
23/04/2013(Xem: 9130)
Quyển NGỮ LỤC này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư DUYÊN LỰC trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời. Cứ hằng tháng Ngài cho mở một khóa tu bảy ngày ở mỗi Thiền đường cho các hành giả tu Thiền, gọi là “đả thiền thất” để hướng dẫn đại chúng chuyên sâu trong sự nghiệp tu hành. Những lời dạy trước sau đều được đồ đệ ghi âm lại để làm tài liệu tham khảo.
23/04/2013(Xem: 5366)
Như đã kết thiện duyên từ thuở ấy, Giọt mưa trời tưới ngọt đất Hồ Nam. Tiêu phụ thân và từ mẫu họ Nhan Dòng vọng tộc, làm quan Thanh triều đại.
22/04/2013(Xem: 5941)
Kể từ khi loài người biết phát huy trí tuệ, chúng ta thấy rõ có hai khuynh hướng phát triển, khuynh hướng hướng nội và khuynh hướng hướng ngoại. Khuynh hướng hướng ngoại, gọi là ngoại quan, tức quan sát sự hiện hữu và diễn tiến của sự vật bên ngoài giúp cho con người có được nhận thức đúng đắn về sự sống của hiện tượng giới.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567