Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ni trưởng Thích Nữ Viên Minh (1914 - 2014)

05/07/201403:56(Xem: 6017)
Ni trưởng Thích Nữ Viên Minh (1914 - 2014)


Thich Nu Vien Minh
Hôm nay, dẫu Ni trưởng Thích nữ Viên Minh duyên trần đã mãn nhưng tâm hạnh và sự nghiệp tu tập của Người mãi là kho tàng vô giá, là ngọn Hải đăng cho Ni chúng Thừa Thiên Huế nói riêng và cả nước nói chung đồng tôn ngưỡng hướng về.

Ni trưởng thế danh Nguyễn Thị Khiêm Tốn, húy thượng Tâm hạ Huệ, tự Viên Minh, hiệu Trí Uyên, sinh năm Giáp Dần (1914) tại thôn Động Giả, xã Đỗ Động, huyện Thanh Oai, Hà Nội (tức tỉnh Hà Đông).

Ni trưởng xuất thân trong gia đình quyền quý, ảnh hưởng Nho học và văn hóa Âu Tây. Thân phụ là Tham tá Lục Lộ Nguyễn Xuân Tuyển, thân mẫu là cụ bà Phạm Thị Nhạ, hai cụ sinh hạ được ba chị em, Ni trưởng là trưởng nữ. Do duyên cụ bà mất sớm, nên ba chị em Ni trưởng được sự bảo dưỡng của Di mẫu là cụ bà Công Tôn Nữ Thuyền Duyệt, pháp danh Trừng Thành (dòng dõi Hoàng phái, cháu nội cụ Tuy Lý Vương ở Vỹ Dạ, Huế). Sau này Ni trưởng có thêm năm người em nữa, gồm ba gái hai trai.

Nhờ túc duyên, từ nhỏ Ni trưởng đã có đạo tâm, càng lớn đạo tâm ấy càng hiển lộ rõ nét. Khi duyên lành đến nhờ đọc báo Viên Âm mới hiểu rõ các pháp hữu vi do duyên sinh nên chúng vô thường, biến đổi, vô ngã. Sau đó, lại được đọc kinh Lăng Nghiêm do Bác sĩ Lê Đình Thám dịch giải, tâm thức Ni trưởng bừng sáng, cảm thấy cửa giải thoát hé mở và từ đây Người nuôi chí xuất trần, tầm sư học đạo.

Năm 1937, nhân được Di mẫu dẫn vào Huế chữa bệnh, trú tại nhà bà ngoại; Ni trưởng ngỏ lời nhờ người bạn dẫn đến ngôi chùa nào trên núi xin xuất gia, nhưng bạn bảo chỉ biết chùa Từ Đàm. Thế là hôm sau, Người trốn mẹ và bà ngoại khăn gói lên chùa, đến nơi gặp cố Ni trưởng Diệu Không (hồi đó còn hình thức nữ cư sĩ) đang giảng về lý Nhân Duyên trong Cảnh Sách, Người vào dự thính rất chăm chú và thích thú. Sau đó, Người xin xuất gia với Sư cụ thượng Diệu hạ Hương trú trì Ni Viện Diệu Đức.

Khi hay tin Người xuất gia, Di mẫu của Ni trưởng đến chùa bắt ép phải về. Sau bao lần khuyên giải, thuyết phục không thành, gia đình đành bất lực trước sự kiên định của Ni trưởng nên thuận lòng để Người xuất gia.

Từ đó, Ni trưởng cảm nhận rằng, ngôi chùa chính là ngôi nhà thật sự đưa mình đi đến con đường giải thoát. Bước đầu tu tập tuy gặp nhiều chướng duyên nhưng Người đã vượt qua tất cả. 

Hằng ngày, Ni trưởng tinh tấn tu hành, lo bồi công lập đức. Với đức tính ôn hòa nhã nhặn, biết kính trên nhường dưới, nên Ni trưởng luôn được mọi người trong chùa quý mến.

Hội đủ duyên lành, ngày 9 tháng 9 năm Đinh Sửu (1937) Ni trưởng được đức Tăng Thống Thích Tịnh Khiết, trú trì Tổ đình Tường Vân - Huế truyền thọ Sa Di Ni giới, (Pháp tự Viên Minh) với sự hộ giới đông đủ của quý Thầy học Tăng Trung Học tại chùa. 

Trong tinh thần cầu học, năm 1939 Ni trưởng xin phép Giáo Hội và Sư cụ Diệu Hương vào học lớp Gia giáo tại chùa Bà Ba Sàng và chùa Vạn An (Sa Đéc). Năm 1940, Ni trưởng trở về Ni viện Diệu Đức đảm trách chức tri sự. Cũng vào năm này, tuy còn Sa Di Ni nhưng Sư đã cùng cố Ni trưởng Thể Yến đảm nhiệm giảng dạy Quy Sơn Cảnh Sách và Di Đà Sớ Sao tại chùa Bồ Đề, Gia Lâm, Hà Nội.

Mùa Thu năm 1944 (Giáp Thân) Ni trưởng thọ Tỳ Kheo Ni tại Đại giới đàn Thuyền Tôn do cố Hòa thượng Thích Giác Nhiên làm Đàn đầu, cố Hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm Yết ma. Năm 1947, Ni trưởng lên ở chùa Khải Ân - Châu Ê, Huế. Cũng trong năm đó, được sự chỉ dạy của Hòa thượng Già Lam, Ni trưởng cùng các pháp lữ đã mở cơ sở dệt vải để chăm lo đời sống cho Ni chúng bấy giờ.

Cố Ni trưởng Diệu Không vì đảm trách nhiều Phật sự, như trông coi nhà in Liên Hoa, giúp Sư cụ Diệu Hương và Ni trưởng Thể Yến chăm sóc học chúng Diệu Đức, đi thuyết giảng trong Nam ngoài Bắc... nên năm 1953 đã mời Ni trưởng đến Trú trì chùa Hồng Ân dìu dắt Ni chúng tu học.

Năm 1960 vâng lời cố Ni trưởng Diệu Không, Ni trưởng vào Phú Yên an cư và làm Phật sự tại Cô nhi viện Tuy Hòa.

Năm 1962 cố Hòa thượng Già Lam và quý Ni trưởng thành lập Ni viện Diệu Quang - Nha Trang để hoằng truyền Chánh pháp, đào tạo Ni tài.

Năm 1963 Ni trưởng được mời vào làm Phó Giám viện Ni viện Diệu Quang để dẫn dắt Ni chúng, đồng thời làm Giám đốc Ký nhi viện Phước Điền - Nha Trang. Bước chân vào đường hóa đạo, Ni trưởng luôn là người xứng đáng với trọng trách mà quý Hòa thượng giao phó, xứng danh làm nơi quy ngưỡng cho nam nữ Phật tử các giới quy hướng.

Từ năm 1964 đến năm 2007, Ni trưởng lần lượt được cung thỉnh làm Giáo thọ Yết ma A xà lê, Hòa thượng Đàn đầu ở các giới đàn được tổ chức tại Nha Trang, Phan Rang.

Năm 1972, Ni trưởng về thọ lễ tang Bổn sư - đức đệ nhất Tăng Thống Tường Vân, rồi lưu lại ở Huế làm Đặc ủy Xã hội và dạy Qui Sơn Cảnh Sách tại Ni viện Diệu Đức, Huế.

Sau ngày giải phóng, vì Ni viện Diệu Quang thiếu bậc niên cao lạp trưởng nên Hòa thượng Trí Nghiêm, Hòa thượng Đổng Minh mời Ni trưởng trở lại Nha Trang đảm nhận trọng trách Giám Viện Ni Viện Diệu Quang, tiếp tục sự nghiệp hoằng truyền chánh pháp và chăm lo đời sống tu hành cho Ni chúng tại đây.

Năm 1990 vâng lời cố Ni trưởng Diệu Không và quý Hòa thượng ở Huế, Ni trưởng trở về chùa Hồng Ân tiếp tục hành Như Lai sự, trùng tu Chánh Điện và các ngôi nhà khác đã xuống cấp. Mặc dầu niên hạt đã ngoài cửu thập nhưng hằng ngày Ni trưởng vẫn miệt mài thủ bất ly quyển, hễ buông sách thì Người lại niệm Phật miên mật.

Năm 1993, Ni trưởng được cung thỉnh làm Hòa thượng Đàn đầu giới đàn phương trượng Diệu Đức; năm 2005 làm Hòa thượng Yết ma A-xà-lê giới đàn Giác Nhiên - Thuyền Tôn, năm 2010 làm Hòa thượng Đàn đầu giới đàn Minh Hoằng -Từ Đàm.

Đối với chư Tăng, Ni trưởng luôn một lòng cung kính, thường giữ Bát Kỉnh Pháp nghiêm cẩn. Với Ni chúng, Ni trưởng luôn khuyến khích, động viên, sách tấn chư Ni thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, vững bước trên con đường tu tập xứng đáng là con gái của dòng họ Thích. Với Phật tử thì Ni trưởng rất từ ái, bao dung và độ lượng.

Đức trí sáng ngời của Ni trưởng đã thôi thúc hàng đệ tử xuất gia quyết định tổ chức Lễ Bách Tuế vào ngày 13/03/  năm Quý Tỵ để tỏ lòng Tri ân và Tôn ngưỡng của Đại chúng đối với Ni trưởng. Chính trong dịp này, đã cho ra đời ấn phẩm "Cội Tùng Tỏa Bóng" của Ni trưởng đã dâng lên Chư Tôn Thiền Đức Tăng-Ni cũng như các thiện nam tín nữ Phật tử khắp mọi miền đất nước. Tác phẩm này đã lưu bút tích những bài thơ được Ni trưởng cảm tác từ quá trình tu thân hành đạo của Người trong suốt một thế kỷ tròn.

Hôm nay, dẫu Ni trưởng duyên trần đã mãn nhưng tâm hạnh và sự nghiệp tu tập của Ni trưởng mãi là kho tàng vô giá, là ngọn Hải đăng cho Ni chúng Thừa Thiên Huế nói riêng và cả nước nói chung đồng tôn ngưỡng hướng về.

Và rồi, thuận theo lẽ vô thường, sau một thời gian lâm bệnh nhẹ, Ni trưởng như đã "Dự Tri Thời Chí". Ni trưởng biết trước mình sẽ quy Tây nên đã dặn dò chúng đệ tử Xuất gia cũng như tại gia tất cả những Phật sự cần yếu.

Vào lúc 5giờ 45 phút, rạng sáng ngày 30 tháng 6 năm Giáp Ngọ, Ni trưởng đã an nhiên thị tịch, trú thế 101 tuổi và 70  Hạ lạp.

Nam Mô Lâm Tế Tứ Thập Tam Thế Tường Vân Pháp Phái, Hồng Ân Ni tự trú trì, Diệu Quang Ni Viện Viện Chủ húy thượng Tâm hạ Huệ, tự Viên Minh hiệu Trí Uyên Hòa Thượng Ni Giác Linh thùy từ chứng giám.    
  

Ban Tổ chức và Môn đồ pháp quyến

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/05/2012(Xem: 7724)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 18638)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 5284)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 7363)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 4393)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 17237)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 8198)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 4681)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 5457)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
23/03/2012(Xem: 5109)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567