Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nghi Báo Tiến Đôn Hậu Cao Tăng Đại Lão Hòa Thượng

17/12/201019:27(Xem: 5839)
Nghi Báo Tiến Đôn Hậu Cao Tăng Đại Lão Hòa Thượng

htdonhau
NGHI BÁO TIẾN
 

ĐÔN HẬU CAO TĂNG ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG


TIẾT THỨ LÂM ĐIỆN 
- Chuông trống Bát nhã, - Cử nhạc khai đàn 
Chủ lễ lâm diên, - Cử nhạc tham lễ 
Chủ lễ niệm hương, - Dâng hương - tác lễ.

CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH - Xướng: 
- Hiếu đồ Môn phái, - Mời đến trước đây 
- Tất cả đều quì, - Đốt hương mặc niệm.

CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH - Vịnh khai diên 
.Thế là đại hạn đến rồi ! 
- Giường hạc canh thâu (1) phút mộng tàn, 
Nghìn thu vĩnh biệt nẻo nhơn gian ! 
.Thật vậy! 
Hóa thân Báo xả siêu sinh tử
Chân tánh quang thu nhập Niết bàn
.Tuy nhiên 
- Chết chẳng sợ sa đường địa ngục 
Sống không ham đến ngõ Thiên đàng
Thế thì Người đi đâu ? 
- Cân bình nửa gánh về quê Phật, 
Để lại trần gian ngọn Pháp tràng !

TẢ BẠCH XƯỚNG: 
Dâng hương lên án cúng dường
- Cúi lễ Giác linh ba lạy. 
- Tất cả thứ tự lại quì. 
Chí thành một lòng làm lễ.

CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH - Cử hương tán: 
- Hương xông đảnh báu, giới định tuệ hương, giải thoát tri kiến quí khôn lường, ngào ngạt khắp muôn phương, thanh tịnh tâmhương, đệ tử nguyện cúng dường ! 
Nam mô Hương Cúng Dường Bồ tát (3 lần)

CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH - Tuyên dương thân thế đạo nghiệp. 
.Kính bạch Tân tịch Cao tăng Đôn Hậu đại lão Hòa thượng Giác linh! 
.Chúng con thiết nghĩ Hòa thượng, Người: 
- Cùng Tổ ngộ lòng thiền, trong cữa Tây Thiên vâng lời thọ ký
Vì người khai Phật trí, tại chùa Thiên Mộ, nối nghiệp độ sinh ! 
.Nhớ Giác linh xưa ! 
- Người là: 
Non nước anh linh, trăng sao tú khí 
Ngọc vàng tinh túy, tòng bá kiên cường ! 
Hơn thế nữa, Người còn là: 
Phật pháp đống lương, Tôn môn cương kỷ, 
Tào Khê Pháp khíThiếu thất gia trân
.Người đã từ : 
Quảng Trị nhà Diệp giáng thần
nhơn gian thác chất
Thần Kinh cữa tùng đầu Phật, 
thế ngoại thê thần 
.Lúc thiếu thời, Người: 
- Đèn sách chuyên cần, Nho phong thế phiệt, 
Bút nghiêng mài miệt, cữa Khổng sân Trình. 
Trau dồi lý thuyết Năm kinh, 
Xôi nấu từ chương Bốn sách. 
Học tập Trí tri vật cách, 
Thực hành tâm chỉnh, thân tu... 
.Thế nhưng đại sự tử sanh, Người thường thao thức: 
- Không lẽ: 
Kiếp sống phù du, 
Nhắm mắt hồn tiêu vĩnh kiếp
- Há rằng: 
Cuộc đời hồ điệp, 
Xuôi tay mộng vỡ trường miên. 
- Biết nhờ ai mở cữa thâm huyền ? 
Biết hỏi ai chỉ tường diệu ngộ ! 
.Thế rồi, Người vào Thuận Hóa
- Tâm Tịnh cầu Thầy thế độ, 
Tây Thiên xin Tổ xuất gia
.Từ đó người sống cuộc đời đạo hạnh
Thanh tịnh Thi Laquang minh Bát nhã
Họ Thích - Người - nguyện xây nghiệp cả, 
Dòng Thiền - Người - mong dựng tôn cao. 
.Với ý chí ấy không bao lâu Người được Bổn sư: 
- Truyền áo Phương bào, giữa lúc trăng sao lóng lánh
Xoa tay viên đảnh, trong khi sương tuyết lạnh lùng ! 
.Bổn sư Người còn ân cần Phú chúc rằng: 
Trong cửa Ta: 
- Trừng, Giác Nguyên trước hết. 
Thích Đôn Hậu sau cùng, 
Làm đạo chớ mỏi mệt, 
Dựng nghiệp phải siêng năng. 
.Sau đó Người xin lên đường tham phương du hóa
Người đã gõ cửa: 
- Hồng Khê tham vấn Đại Tăng 
Thập Tháp thỉnh cầu Thượng sĩ : 
Cơ thiền huyền bí, ý Tổ mật nghiêm... 
.Bởi vậy Người đã: 
Bao lần chịu gậy dưới thềm 
Mấy độ nghe la trong thất. 
.Trong cơ sự bất giác ấy, đã làm cho Người: 
- Mộng tan nửa giấc, hồn tỉnh một đời
Cơ thiền diệu ngộ không lời, 
Ý Tổ tâm truyền khó nói. 
Tuy nhiên
Cõi lòng sáng chói, 
Cuộc sống thanh bình 
.Sau giờ phút thay hồn thoát xác ấy, Người phát nguyện
- Thuyền từ bể khổ đăng trình
Xe pháp đường mê thượng lộ
- Người đã: 
chuyển luân Pháp cổhàng phục quân ma. 
Hiệu triệu Pháp loa, hoằng dương đạo Phật
- Khuông phò Tổ quốc, cháu con Vạn Hạnh tiên sinh
Vận động hòa bình, Thầy Tổ Nhất chi hậu bối
Độ sanh: Người mở mang Phật hội
Tiếp chúng: Người xây dựng Tăng trường. 
Tuy rằng: 
Luy tiết vấn vương, chim kêu phi tội, 
Đấu tranh đòi hỏi, Người bảo vô công ! 
.Hơn thế nữa, Người: 
Thừa kế Thích TôngTăng thống đại vì chỉ giáo, 
Duy trì Thánh đạo, giáo quyền Giám luật chủ trì. 
.Người còn tượng trưng cho: 
Ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh
Tỏ lòng thấy tánh, trăng sáng nước trong. 
- Thanh cao Thiên Mộ Tổ phong, 
Nghiêm Túc Thiền tôn đại hóa
Vị tha vô ngã: kiến nghĩa năng vi, 
Hưng từ vận bi: đương nhơn bất nhượng ! 
- Cao cả thay, Tòng lâm long tượng ! 
Quí báu thay, Đôn Hậu cao tăng !

CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH - Cảm thán: 
.Thế nhưng việc phải đến đã đến, thật vô khả nại hà
Than ôi! 
Đạo tràng gió tạt Từ đăng, 
Pháp hội khói tan Tuệ cự
Giờ nầy: 
Tăng Ni đau buồn mọi xứ, 
Thiện Tín thương tiếc khắp nơi. 
Thậm chí: 
Tòng bá lệ rơi, trống chuông buồn trổi. 
Thật quyền bối rối, tàng hiện bàng hoàng ! 
Người: chia tay Giáo hội, Tăng đoàn! 
Người: rẻ bước Niết bàn Phật quốc ! 
Tuy vân: 
Hương hoa Đàm vẫn còn phưởng phất, 
Hồn cỏ Húy luống những mơ màng
Hoặc giả
- Chơn tánh thường an, 
hóa thân biến dịch
Nên người: 
Theo Thầy họ Thích, quảy dép Tây Thiên
Từ chúng nhà Thiền, treo bình Đông độ! 
.Trước tình cảnh ly biệt nầy: 
- Sông Hương kinh hoàng biến cố
Núi Ngự ngơ ngác tình hình ! 
Đến đây: 
- Trước đài bày tỏ hiếu tình, 
Trên tọa mặc nhiên hỷ xả (hứa khả)

CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH - Tuyên pháp ngữ
.Kính bạch Giác linh đại lão Hòa Thượng ! 
.Chúng tôi nghĩ rằng: 
Biết bao giờ nghe Thầy hỏi đá: Phật tánh vân hà ? 
Biết mấy thuở thấy Tổ cầm hoa: Pháp thân như thị ! 
.Như Người đã biết: 
Sanh tửNiết bàn bất dị, 
Bồ đềphiền não vô thù ! 
.Chỉ tiếc rằng: 
Nhất biệt, thiên thu
.Xin mong được: 
Tam sanh tái ngộ. 
.Thế thôi!

TẢ BẠCH TIẾP: (Theo nhạc chuyên thân phụng thỉnh
.Kính bạch Giác linh đại lão cao tăng ! 
Pháp sư vừa cúng dường Cam Lộ
Linh Giác đà nạp thọ đề hồ, 
Giờ nầy: 
Giáo đoàn, Pháp phái, Hiếu đồ, 
Trân trọng thượng hương bái thỉnh. 
Hương hoa thỉnh, hương hoa phụng thỉnh:

CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH – Thượng hương - Sơ thỉnh: 
Nam mô nhất tâm phụng thỉnhThạch Liêm tục diệm, Liễu Quán thừa đăng. Biển Pháp mạc vận côn bằng, rừng Thiền hậu sanh sư tượng. Hôm nay Pháp tịch phụng vì: Sắc tứ Thiên Mộ đường thượng Trụ Trìnối dòng pháp Lâm Tế đời thứ 42, húy Thượng Trừng hạ Nguyên, Tân tịch bổn sư, Hòa Thượng Giác Linhliên đài tọa hạ
- Duy nguyện: Hương lòng vừa bén, Linh giác đã hay, Pháp tịch hôm nay, nguyện xin chứng giám
Hương hoa thỉnh, hương hoa phụng thỉnh.

CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH - Thượng hương - Tái thỉnh
Nam mô nhất tâm phụng thỉnh: Mích tâm tôn giả, cầu Phật đại phu. Ấn tâm chánh thống nghìn thu, y bát chơn truyền muôn thuở. Hôm nay Pháp tịch phụng vì: Sắc tứ Tây thiên đường thượngnối dòng pháp Lâm Tế đời thứ 42, Pháp hiệu Đôn Hậu Pháp sư Giác linhliên đài tọa hạ
- Duy nguyện: Đài vàng hoa rải, đảnh báu hương bay, thành kính tỏ bày, nguyện xin minh chứng. 
Hương hoa thỉnh, hương hoa phụng thỉnh.

CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH - Thượng hương - Tam thỉnh
Nam mô nhất tâm phụng thỉnh: Cổ chùy đại sát(2) lão nạp Tổ đình, thoại đầu khám phá nghi tìnhcông án phát minh tín nhẫn(giải). Hôm nay Pháp tịch phụng vì: Thiền tôn tự Tổ, nối dòng Pháp Lâm Tế đời thứ 42. Đại diện Vạn Hạnh giáo khu Hòa Thượng Giác linhliên đài tọa hạ
- Duy nguyện: Thiền sàng an vị, linh tọa cao cư, ngưỡng nguyện thùy từ, chứng minh công đức
Hương hoa thỉnh, hương hoa phụng thỉnh
Nam mô Đăng Bảo Tọa Bồ tát (3 lần)

TẢ BẠCH XƯỚNG
- Sơ hiến trà - Lễ ba lạy - Cùng quỳ.

CHỦ LỄ RUNG LINH – Vịnh 1: 
- An linh báo hiếu lễ nghiêm trang
Duy nguyện Tôn sư giáng đạo tràng 
Lễ nhạc hương hoa dâng cúng dưỡng 
Cúi đầu đảnh lễ trước tôn nhan.

KỆ TRÀ
Tôn nhan ngôi sư tượng 
Tướng hảo vẫn huy hoàng 
Dâng hương hoa cúng dưỡng 
Cúi lễ trước linh sàng. 
Lễ ba lạy - Cùng quỳ.

CHỦ LỄ XƯỚNG SỚ
Nguy nguy tăng tướng, hạo hạo uy quang, 
Thiên thượng nhơn gian tùy duyên ứng cúng
Nay có hiếu chúng, thiết lễ an linh, tỏ tấc hiếu tình, sớ văn bái bạch. Duy nguyện tôn sư cảm cách, Từ bi tác đại chứng minh.

TUYÊN ĐỌC VĂN SỚ: 
.Kính bạch Thiên Mộ tân tịch Hòa Thượng Giác linh! 
.Chúng tôi cung kính nghe rằng: 
Đại Phật xuất hưng, tự có ngày Niết bàn an nghỉ; Tôn sư nhập diệt, há không dịp đền đáp thâm ân. Sự ấy rất cần, lý đâu lại chấp. 
Sớ rằng: 
Nay có Tỳ Kheo hiếu đồ Thích............ 
cùng cả bốn chúng Tăng Nimười phương Phật tử thuộc các Tổ đình Thiền Tôn, Linh Mộ, Tây Thiên ... ở cố đô Huế. 
Giờ này cung kính quỳ trước Tổ đình, 
Chí thành dâng lên sư tọa: 
Tâm hoa Bát nhãđạo vị Thiên Trùthanh tịnh trai tu, thiền duyệt pháp hỷ. Ngõ đền ơn khai thị, hầu tỏ dạ tiếc thương, hiếu tình hương phẩm cúng dườngLinh giác ai liên chứng giám! 
.Tất cả chúng tôi tự nghĩ rằng, Tôn sư Người: 
Pháp thân diệu trạm, Phật tánh linh minh. 
Thuyết pháp độ sinhtham thiền kiến tánh 
- Non thần viên đảnh, nghe nhiều thấy rộng phẩm cao. 
Ruộng Phước phương bào, giống Thánh hạt lành giá quý. 
Người là: 
Trần triêu đạo sĩ
Tịch tịnh thiền tăng
Than ôi! 
Đau lòng trước cảnh sơn băng, 
Tủi dạ trong tình hà ẩm. 
Rồi đây: 
Áo mão khói mờ màu giáo phẩm, 
Gậy giày mưa xóa dấu (gót) Tăng quan
Giờ thì: 
Tịch mịch Thiền sàng
Cô liêu linh tọa. 
Từ nay: 
Ai phò cơ cao nghiệp cả ! 
Ai truyền diệu kệ chơn thuyên ? 
- Đức lớn khó đền, 
Lòng hèn nào bổ ! 
Nay thời: 
Đạo Tràng chánh độ, thiết lễ tôn vinh, nghi trượng an linh, tuyên dương công đức; cẩn cụ sớ văn tuân thứchòa nam bái bạch xin nghe: 
Nam mô Sắc tứ quốc tự Thiên Mộ Tổ đình, Trụ trì tân tịch Đôn Hậu Cao tăng Hòa Thượng, đại lão Giác linh tác đại chứng minh !

Phục nguyện: Một tánh viên minhTây phương trực vãng, ba thân thanh tịnhchánh giác vị thành, chứng pháp nhẫn vô sanh, nhập chơn thừa đại định. Mong Phật thọ mệnh, ứng hóa độ sanh. Cẩn sớ. 
Nay, ngày......tháng......năm.......PL........... 
Sa môn Thích............................………………… 
hòa nam thượng sớ.

TẢ BẠCH XƯỚNG: 
- Á hiến trà – lễ ba lạy – cùng quì.

CHỦ LỄ RUNG LINH - Vịnh 2: 
- Sắc hương mỹ vị y bồ soạn
Thành kính dâng lên trước bảo đài
Một bát Hòa la đầy đạo vị
Cúng dường Hòa Thượng sứ Như Lai.

KỆ TRÀ: 
Như Lai người sứ giả
Ứng cúng khắp muôn phương, 
Một bát y bồ soạn, 
Xin thành kính cúng dường
Nam mô Mỹ Hương Trai Bồ tát. (3 lần)

TẢ BẠCH XƯỚNG : Phụng thực. 
- Tụng: Cúng dường Nam mô tát phạ.....

TẢ BẠCH XƯỚNG
- Chung hiến trà – lễ ba lạy – cùng quì.

CHỦ LỄ RUNG LINH - Vịnh 3: 
Người từ đâu đến, đi về đâu ? 
Đạo lý vô sanh quá nhiệm mầu 
Đến chẳng tằng sanh, đi chẳng diệt, 
Đến đi, dấu tích khó tìm cầu !

KỆ TRÀ: 
Tìm cầu chi dấu vết. 
Chẳng đến cũng chẳng đi. 
Lý vô sanh đã rõ (nếu rõ) 
Đi, đến hỏi làm gì ?

TỤNG: Ma ha Bát nhã...

CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH Hồi hướng
- Vừa rồi, bao nhiêu công đức, bấy nhiêu hương hoathành kính thiết tha, nguyện xin cúng dưỡng: Linh Mộ phương trượngLinh giác tọa tiền, duy nguyện ai liên, thùy từ minh chứng. 
Sau hết: chúng tôi cúi mong Người hãy dùng: 
Thần thông cảm ứngdiệu dụng thiêng liênggia hộ cho: Thanh tịnh nhà Thiền, trang nghiêm chốn Tổ, trong sáng Tôn phong Linh Mộ, vàng son Tổ ấn Thiền Tôn. Đạo Pháp trường tồn, núi sông vĩnh điện. Nghe pháp dưới sân Tiêu Diễn(3) tham thiềntrong thất Thần Quangnối dòng lịch sử vẻ vang, noi dấu ông cha rạng rỡTrúc Lâm thiền phong muôn thuởYên Tử tổ nghiệp nghìn thu, Tăng Ni thực học chân tuThiện tín xây đời giữ đạo, tôn thờ Tam Bảo, đền đáp Tứ Ân
Đồng hòa: Nam mô A Di Đà Phật.

CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH – Tán lưu: 
Đại Tăng tang sự rất nghiêm trang 
Long vịthiền sàng đã tạm an. 
Nghi trượng Thiền môn còn tiếp diễn 
Xin Người an nghỉ tại linh sàng ! 
Nam mô Linh Tự Tại Bồ tát. (3 lần)

CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH - Kết diên - Xướng: 
- An linh lễ tất, hiếu sự sơ thành. 
Chuông trống hòa thanh, lễ từ ba lạy. 

GHI CHÚ: 
(1) Giường hạc an nhiên: nếu tịch ban ngày. 
(2) Lão cổ chùy: xem Phật học từ điển: trang 945 
(3) Tiêu Diễn: tên vua Lương Võ Đế


Có thể thay thế các bài Vịnh: 


CHỦ LỄ HẠ PHỦ XÍCH - Vịnh khai diên: 
- Giường hạc an nhiên phút mộng tàn, 
Nghìn thu vĩnh biệt nẻo nhơn gian. 
Từ nay mỗi lúc nhớ Người: 
Pháp âm gió thoảng hồn ngơ ngác 
Tăng tướng mây bay dạ ngỡ ngàng. 
Tuy nhiên
Đạo nghiệp một đời ghi đá trắng, 
Hóa thân muôn thuở ngự hoa vàng 
Mặt khác chúng con cũng nghĩ rằng: 
Niết bànsanh tử không hai lẽ. 
Duy nguyện cao tăng giáng đạo tràng.

VỊNH 3: 
- Chim thức xé lồng bay mất dạng 
Cá tâm phá sóng lặng im hơi 
Hỏi ai biết được đường chim cá, 
Chim ở trời cao, cá bể khơi.

KỆ TRÀ: 
- Bể khơi tìm tăm cá, 
Trời rộng hỏi dấu chim 
Qua lại không tung tích 
Biết đâu để dọ tìm.

VỊNH 1: 
Từ ngày quảy dép trở về Tây, 
Trượng thất, hoa viên vắng bóng Thầy 
Vì thế: 
Bãng hát âm vang cơn gió thoảng, 
Oai nghi dáng dấp áng mây bay.

KỆ TRÀ: 
- Mây bay ngờ dáng dấp, 
Gió thoảng ngỡ âm vang. 
Vườn nhà ôi vắng vẻ, 
Thầy quảy dép liên bang !

VỊNH 1: 
- Cội tùng vằng vặc trăng chờ chủ 
Khóm trúc vi vu gió đợi Thầy. 
Tùng trúc gió trăng nào có biết, 
Thầy về trong khói diệu hương nầy.

KỆ TRÀ: 
- Hương nầy mùi vi diệu
Phưởng phất khắp muôn phương, 
Vi vu tình tùng trúc, 
Trở gót về cố hương.

VỊNH 1: 
- Hơn mười vạn dặm tự trời Tây 
Phi tích quang lâm nhọc sức Thầy 
Bảo tọa tuy cao nhưng chẳng ngại, 
Xin Thầy an tọa xuống đài mây

KỆ TRÀ: 
- Đài mây Thầy an tọa 
Chứng minh công đức nầy 
Trời Tây muôn ức dặm 
Đàn chỉ tức về đây.


Bản thảo nghi nầy soạn xong ngày 23 tháng 5 năm Canh Thìn, PL: 2532, nhằm ngày 6 tháng 7 năm 1988 DL, tại Hạ Chùa Hội Phước – Quảng Ngãi.
Hậu học Huyền Quang. hinh hương cung soạn 
cúng dường tán thán: Đôn Hậu cao tăng
Duy nguyện Thiền tăng, vĩnh thùy trường dạ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/11/2010(Xem: 7055)
Vào ngày 1-11-1963 khi quân đội đứng lên làm cuộc đảo chánh lật đổ chế độ của gia đình Ô. Ngô Đình Diệm - mà Hội Đồng Quân Dân Cách Mạng do Đại Tướng Dương Văn Minh cầm đầu gọi đó là cuộc “Cách Mạng” thì tôi là cậu sinh viên Luật Khoa Năm Thứ Nhất, chuẩn bị thi lên Năm Thứ Hai của Đại Học Luật Khoa Sài Gòn. Bố tôi sính đọc sách báo, vả lại gia đình cư ngụ ở xóm lao động cho nên Radio hàng xóm mở ầm ầm cả ngày khiến dù không muốn nghe nhưng cũng phải nghe tin tức từng giờ của đài phát thanh. Hơn thế nữa khi Sài Gòn nổ ra cuộc đấu tranh của Phật Giáo thì hầu như các đại học, trung học đều đóng của hoặc tự động bãi khóa.
10/11/2010(Xem: 6655)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6951)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 1036)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 34004)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4767)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4694)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4657)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4600)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4941)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567