Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Duyên hội ngộ với HT Nguyên Lai

07/06/201316:05(Xem: 7030)
Duyên hội ngộ với HT Nguyên Lai

hoathuongthichnguyenlai
DUYÊN HỘI NGỘ VỚI HÒA THƯỢNG NGUYÊN LAI
Điều ngự tử Tín Nghĩa

Tôi gặp Hòa thượng Nguyên Lai cũng nhờ Ni sư Nguyên Thanh(mà nay là Pháp vị Ni Trưởng Thích Nữ Nguyên Thanh, đương kim Viện chủ chùa An Lạc, San Jose).Trước tiên là cám ơn Ni trưởng Nguyên Thanh hằng năm cung thỉnh chúng tôi về chứng minh, thuyết giảng hầu hết những Đại lễ mà đặc biệt là vía đức Phật Di Đà. Kể từ khi Giáo chỉ số 9 ra đời, thì chúng tôi không còn diễn giảng hay chứng minh bất cứ một lễ nào nữa ; cũng vì tế nhị nên giữa chúng tôi và Ni trưởng ít khi còn gặp nhau, mặc dầu không có gì giữa Ni trưởng và chúng tôi. Tuy thế, thỉnh thoảng, Ni trưởng cũng gởi quà cúng dường và ngày tư ngày tết cũng điện đàm thăm hỏi sức khỏe của nhau với những lời đầy pháp vị như xưa.
Hòa thượng Nguyên Lai hòa nhập mảnh đất mới Hoa Kỳ vào khoảng giữa hay gần cuối năm 1994, theo diện HO, với chức vụ Thiếu tá đồng hóa ngành Tuyên úy Phật giáo, thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Chính chúng tôi cũng đã trực tiếp làm Cố vấn cho Chương trình Hội Tù nhân Chính trị từ HO Một đến HO Mười tại vùng Dallas – Fort Worth. Và cũng đã từng đứng ra bảo trợ cho những gia đình HO thân quen từ quê nhà trước 1975. Mỗi lần có một gia đình HO đến, thì trong hội chia nhau người đi lên phi trường đưa đón, kẻ đi tìm nhà để thuê mướn, riêng chúng tôi thì đi vận động lương thực và những nhu dụng, tuy không phải là mới nhưng là đồ tốt, còn dùng được.
Khi hai chúng tôi(Hòa thượng Nguyên Lai và Tín Nghĩa)biết nhau, thì chúng tôi thường gọi Hòa thượng bằng“anh”hoặc bằng“thầy”, nhưng rất tương kính và tương thuận nhau.
Ban đầu, thầy ở chùa Giác Minh của Hòa thượng Thích Thanh Cát ; đến gần mùa Phật đản năm 1995, thầy về cọng trú với Tăng chúng chùa Duyên Giác, thành phố San Jose.
Cũng trong năm nầy, chúng tôi qua thuyết giảng vả chứng minh Đại lễ Phật đản 2539 tại chùa An Lạc. Sau khi lễ xong, chúng tôi nhờ một vị Phật tử chở đến tận chùa Duyên Giác để tạo sự thân quen và cảm thông với ngài Nguyên Lai.
Khi quen thân, thầy tâm sự với chúng tôi rằng, ở trong trại ai ai cũng cũng đều đói quá, hễ thứ gì ăn được là cứ ăn kể cả cóc nhái, chuồn chuồn, châu chấu, cào cào, v.v… Thầy kể :
- Thầy Tín Nghĩa biết không ?
- Tôi tếu với thầy rằng, thầy chưa nói làm sao biết ?
Thầy cười rất có duyên và tiếp tục kể : Có lần nọ, khi ban trưa nóng nực, trời nắng, một mình đi ra ngoài kiếm lá cây, ngọn cỏ, nói chung là thức ăn mà danh từ của chế độ gọi là“Đi Cải Thiện”(tức là tìm kiếm thức ăn); ra khỏi trại chưa được bao xa, lom khom vào trong bụi cây, mắt lơ láo nhìn đó đây xem có thứ gì để có thể ăn được không ? Bất thần, một tên du kích từ đằng sau tiến tới, miệng hô to :
- Đứng lại, không tao bắn bể đầu.
Tôi quay lại thấy nó hai tay cầm súng, mon men đi lần tới sát tôi, mũi súng chỉa vào người tôi, hăm dọa đòi bắn. Tôi chẳng một mảy may sợ sệt. Hai tay banh ngực áo ra và tiến về họng súng của nó, nói lớn :
- Đây, mầy bắn tao đi, cứ bắn tao đi,...
Tên du kích thụt lùi, thì tôi lại tiến tới theo nó. Cứ thế, cả hai người kẻ lùi người tiến về đến đất trại. Toàn trại tù nhân, cũng như những cán bộ nghe la lối om sòm, đồng chạy ra hiện trường xem sự thể. Cuối cùng thì ai về chỗ nấy.
Câu chuyện nầy, được một vị HO khi đi lễ Phật chùa Bát Nhã, anh ta đem câu chuyện này kể cho chư Tôn đức và mọi người hôm đó đều nghe.
Anh ta kể, chúng con ở trong trại tù và có một người bạn là người Thiên chúa giáo hết lòng ca tụng và thán phục về thầy Nguyên Lai qua câu chuyện như trên. Anh xưng tụng rằng :
- Thầy Nguyên Lai là Thánh tăng, là Bồ tát của tôi.
Anh kể một cách say sưa, vui thú, thì cả Hòa thượng Nguyên An, Hòa thượng Nguyên Trí, giáo sư Huỳnh Tấn Lê và mọi người đều cười vang. Mọi người chưa dứt tiếng cười, thì Hòa thượng Nguyên An cũng cười và đưa ngón tay chỉ chỏ nói rằng :
- Ngang đó là ngon lành và đủ rồi. Bây giờ mà con tới gặp nữa, thì... Hòa thượng Nguyên An nói đến chữ“thì”, thì cùng vang lên cười một mình và chấm dứt, không nói thêm một chữ nào nữa.
Mọi người đã từng thân cận với thầy Nguyên Lai đều rõ biết vị Lâm Tế tái thế này la hét như thế nào, cũng chỉ cười theo câu chuyện. Vị Phật tử HO ấy chẳng biết mô tê, ất giáp gì cả. Chào quý thầy rồi ra về.
Trở lại sự giao tình giữa chúng tôi và thầy Nguyên Lai. Những lần chúng tôi đến San Jose, đa phần là chùa An Lạc. Vì tôi có duyên với chùa này từ vị Trú trì, ni chúng cùng hầu hết Phật tử ở đây. Ngày chùa còn là một nhà tạm thuê mướn, cải gia vi tự, dùng garage làm nơi thờ tự ở thành phố Marona, rồi về mua nhà ở San Jose, đường Apollo, rồi cùng đi tìm nơi khang trang như bây giờ, hầu hết các lễ lớn chúng tôi đều có mặt. Mỗi lần như thế, nếu chỉ trong ba hôm, thì thế nào cũng lên tận Tu viện Kim Sơn viếng thăm người bạn cố tri là ngài Viện trưởng Thích Tịnh Từ. Nếu dài ngày hơn nữa, thì lên Stockton vấn an ngài Minh Đạt ; tuy thế, không lần nào, sau khi diễn giảng xong, chiều đến là chúng tôi đến vấn an và đàm đạo với thầy Nguyên Lai ờ chùa Duyên Giác. Nơi đây, Thượng tọa Nhật Huệ cũng thương tình làm riêng cho thầy một tịnh thất nho nhỏ bên gốc mít kế chùa. Thầy sống đạm bạc với chiếc ấm trà đã bạc màu với vài chum dùng uống trà thuộc loại đồ cổ, sứt miệng.
Mỗi lần như thế, chúng tôi chỉ lắng nghe và được thầy vui cười kể chuyện. Hết chuyện ở điệu, rồi đến chuyện tu học, chuyện cùng với Hòa thượng Thích Minh Tâm bị đuổi chạy có cờ ở Phan Thiết trong những ngày Pháp nạn 1963 dưới chế độ Ngô triều ; rồi chuyện vào đời binh nghiệp ngành Tuyên úy Phật giáo, rong ruổi trên bốn vùng chiến thuật, để kề cận an ủi, cầu nguyện cho binh sĩ cũng như gia đình binh sĩ khi hữu sự. Thôi thì đủ thứ, thầy huyên thuyên nói không biết mệt. Có lẽ, chúng tôi là người biết lắng nghe, và biết khơi chuyện để thầy nói.
Đến năm 1998, chúng tôi làm lễ Khánh thành Tân chánh điện Tổ Đình Từ Đàm Hải Ngoại, cung thỉnh thầy thân lâm tham dự, trước là để thầy có bầu không khí thư giãn tiếp xúc cùng chư Tôn đức trong ngày Đại hội thường niên Nhiệm kỳ Hai năm thứ hai được diễn ra vào các ngày 09, 10 và 11 tháng 10 năm 1998(nhằm ngày 20 tháng 08 Mậu dần).
Sau khi dự Đại lễ Khánh thành và Đại hội Thường niên, thầy rất vui mừng là được gặp lại quý Tôn đức một thời cùng làm việc với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ; vì, chính thầy cũng là thành viên vâng theo Hòa thượng Thích Trí Thủ, đi đó đây để vận động. Cũng trong ngày lễ ấy, thầy rất vui mừng gặp lại nhị vị tướng quân anh hùng vừa hiên ngang đời lính, trải dài đời mình cho non sông và đạo pháp. Đó là Trung tướng Nguyễn Chánh Thi, người hùng của cách mạng bất thành ngày 11-11-1960 và cũng là người hùng vùng giới tuyến ; và Trung tướng Tôn Thất Đính, người hùng của ngày Cách mạng 01-11-1963. Khi trở về lại am thất của thầy, có viết một bài cảm niệm đối với Từ Đàm Hải Ngoại, trong Kỷ yếu kỷ niệm, có đoạn, thầy viết ở trang 81 như sau :
... “Thượng tọa Thích Tín Nghĩa khi đến Hoa Kỳ đã nhanh chóng nối liền với nhịp cầu tổ chức. Thầy luôn tâm niệm: Dù bất cứ ở nơi đâu vẫn là con em của Giáo Hội Phật Việt Nam Thống Nhất nên đã sớm hội nhập vào Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ. Hiện tại thầy là Tổng vụ trưởng Tổng vụ Nghi lễ.
Song hành Phật sự từ tháng 10-1983 về sau, Thượng tọa vẫn đi khắp đó đây các tiểu bang của Hoa Kỳ cũng như Âu châu và Canada để thuyết giảng và chứng minh,... Nhưng Tân chánh điện Từ Đàm vẫn là chính yếu trong tâm khảm của thầy và hàng Phật tử mong muốn”...

Một đoạn khác ở trang 88, thầy tâm sự : ... “Ngày vui trọng đại nầy là một nhân duyên hội ngộ, Nguyên Lai đã được gặp lại một số nhân vật lịch sử trong Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo 1963, như : Giáo sư Trần Quang Thuận, Trung tướng Tôn Thất Đính, Trung tướng Nguyễn Chánh Thi. Những nhân vật này đã một thời oanh liệt làm nên lịch sử Cách mạng 1963.” ...
Tâm tình và duyên hội ngộ của chúng tôi thì còn dài, trang báo cũng có hạn; chúng tôi chỉ viết một tâm niệm là nhớ lại những gì khi hai chúng tôi gặp nhau trên xứ cờ Hoa. Nay Thầy không còn nữa. Thầy đi xa và xa lắm. Trước khi Ngài du hóa vân trình, thì chính bản thân chúng tôi và Hòa thượng Thích Nguyên Trí, ngậm ngùi đưa hai ngón tay run run, đặt lên nút bấm để đưa cái thân hư huyễn nhỏ bé của thầy trở về với cát bụi, để thầy an nhiên tự tại nhập vào cảnh bất sanh.
Kính mong Thầy được ở trên hoa sen chín phẩn, cảnh giới Di đà Tịnh độ.
Mùa Đản sanh 2557 - Mạnh hạ Quý tỵ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 6728)
Nước ta từ sau ngày Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) vào trấn thủ đất Thuận Quảng, dần dần biến thành một vùng cai trị riêng cắt đứt liên hệ với vua Lê ở miền Bắc, lấy sông Danh làm ranh giới chia cắt Việt Nam thành hai mà sử gọi là Đàng Trong và Đàng Ngoài.
09/04/2013(Xem: 11076)
Hòa Thượng Pháp danh thượng Tâm hạ Ba, tự Nhựt Quang, hiệu Bửu Huệ thuộc đời 41 dòng Lâm Tế (chữ Nhựt) và đời 43 thuộc phái Thiên Thai (chữ Tâm). Húy danh: Nguyễn Văn Ba, sanh năm Giáp Dần (1941), tại Xã Tân Hương, huyện Bến Tranh, Tỉnh Ðịnh Tường (Nay là Tỉnh Tiền Giang). Thân phụ là Ông Ðặng Văn Cử, thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Thu. Hòa Thượng theo họ mẹ, cũng là người con thứ ba trong gia đình gồm hai anh em.
09/04/2013(Xem: 6679)
Ôn Từ Đàm (Hòa thuọng Thích Thiện Siêu) với tôi vốn không có duyên nghĩa thầy trò; mặc dù, vào đầu thập niên 1960, Ôn là Giáo thọ tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang trong khi tôi là một học tăng ở đó. Những tháng năm này, tôi là nguòi được theo học trường Võ Tánh nên thời khóa sinh hoạt của tôi không bị câu thúc chặt chẽ; và vì vậy, ít có cơ hội gần gũi với các bậc thầy lớn như Ôn.
09/04/2013(Xem: 6368)
Trúc Lâm Đại sĩ là vua thứ tư nhà Trần, con của Thánh Tông, lên ngôi ngày 12 tháng 2 năm Mậu dần (1278). Trước khi Đại sĩ ra đời, Nguyên Thánh Hoàng Thái hậu nằm mộng thấy thần nhân đưa cho hai lưỡi kiếm bảo : "Có lệnh của Thượng giới, cho phép ngươi được chọn lấy". Bỗng nhiên được kiếm, Thái hậu bất giác rất vui, nhân đó có thai. Những tháng dưỡng thai, nhà bếp dâng thức gì Thái hậu cứ dùng như thường, chẳng cần kiêng cử mà thai cũng chẳng sao.
09/04/2013(Xem: 8137)
Đọc qua các Thiền sư Việt Nam từ xưa đến nay, chưa thấy một người nào đã chinh phục được các hàng vương tôn, quý tộc, khiến cho họ tín nhiệm, quy y và ủng hộ hết mình như Thiền sư Pháp Loa. Sư là một con người tích cực hoạt động, suốt đời tận tụy phục vụ đạo pháp cho đến hơi thở cuối cùng. Điều đặc biệt quan tâm của Sư là ấn hành Đại Tạng kinh, do đó đã đề xuất, tiến hành và in xong bộ Đại Tạng kinh Việt Nam. Ngoài ra, Sư đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thống nhất Phật giáo, thiết lập một Giáo hội Phật giáo thống nhất đầu tiên của Việt Nam, và Sư là người thứ nhất đúng ra thiết lập sổ bộ Tăng, Ni và tự viện trên khắp cả nước.
09/04/2013(Xem: 6728)
Sư người làng Vạn Tải, lộ Bắc Giang. Thỉ Tổ của Sư là Lý Ôn Hòa, làm quan Hành khiển dưới triều Lý Thần Tông (1128 - 1138). Trải nhiều đời, đến Tổ phụ là Tuệ Tổ, có công đánh giặc Chiêm Thành, nhưng không không chịu ra làm quan, chỉ thích những chuyện hay, sách lạ, và vui thú ruộng vườn. Mẹ Sư là Lê Thị, vốn người hiền đức, bản tính nhân từ, năm 30 tuổi vẫn chưa có con trai. Nhân gặp lúc có bệnh dịch hoành hành, bà đi hái thuốc trên núi Chu Sơn, dừng chân tạm nghỉ tại một ngôi chùa tên Ma Cô Tiên.
09/04/2013(Xem: 6142)
Truyền thống Phật giáo Việt Nam từ truớc đến nay vốn thiên về Phật giáo Phát triển hay Đại thừa; mãi đến năm 1959 lần đầu tiên bộ kinh Trường A Hàm do Hòa thượng Thích Thiện Siêu phiên dịch được xuất bản thì Phật giáo Nguyên thủy mới được các Phật tử chú ý đến. Mặc dù bộ kinh này nằm trong Hán tạng thuộc hệ thống Phật giáo Phát triển, nhưng tinh thần của nó thì tương quan mật thiết với 5 bộ Nikàya trong giáo lý Nguyên thủy.
09/04/2013(Xem: 5483)
Phương Tây có câu tục ngữ "Hoạn nạn làm lớn con người". Phương Đông cũng có câu danh ngôn tương tự "Ngậm cay đắng trong cay đắng mới làm con người trên loài Người". Trường hợp của Trần Thái Tông sao mà ứng với hai câu này đến thế?
09/04/2013(Xem: 5536)
Hòa thượng Thích Thiện Châu Nguyên Đạo (Đọc tại buổi lễ tưởng niệm và lễ Trà Tỳ Hòa thượng Thích Thiện Châu) Hòa thượng họ Hồ Đắc, tên Cư, Pháp danh Tâm Thật, Pháp hiệu Thiện Châu, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1931 tức ngày 7 tháng 1 năm Tân Mùi tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ Thầy là Cụ Hồ Đắc Phách, thân mẫu là Cụ Nguyễn Thị Cần.
09/04/2013(Xem: 28663)
Hòa thượng pháp danh Thiền Tâm, pháp hiệu Liên Du, tự Vô Nhất thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 43, thế danh Nguyễn Nhựt Thăng, sinh năm 1925 (Ất Sửu) tại xã Bình Xuân, Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Song thân là cụ Nguyễn Văn Hương và cụ Trần Thị Dung pháp danh Giác Ân. Ngài là người thứ 10 trong số 13 anh em, 4 trai, 9 gái.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567