Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

I-Niên Ðại và con người

21/05/201312:32(Xem: 9425)
I-Niên Ðại và con người

TOÀN TẬP 
MINH CHÂU HƯƠNG HẢI 

Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành 2000

--o0o--

I.

NIÊN ĐẠI VÀ CON NGƯỜI

Về lai lịch, vì hai trang đầu của Hương Hải thiền sư ngũ lục đã bị mất trong bản in chúng tôi hiện có, nên nếu dựa vào những ghi chép của Lê quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục 9, thì ta biết Minh Châu Hương Hải thuộc vào một danh gia thế phiệt của miền Nam nước ta vào thời ông. Tổ tiên 4 đời là Khởi nghĩa kiệt tiết công thần Trung lộc hầu, người A?g Độ, Nghi Lộc, Nghệ An, theo phò Nguyễn Hoàng và đến sống tại Quảng Nam. Hương Hải đã sinh ra tại vùng đất này, tại làng Bình An thượng, phủ Thăng Hoa, tỉnh Quảng Nam hiện nay vào năm 1628. Năm 18 tuổi ông thi đỗ Hương tiến và được bổ làm tri phủ Triệu phong. Năm Mậu Thìn (1652), ông đến thụ giáo với thiền sư Lục Hồ Vân Cảnh, được đặt pháp tự Minh Châu Hương Hải và pháp hiệu Huyền Cơ Thiện Giác, tiếp đến lại tới học đạo với thiền sư Viên Khoai Đại Thâm. Rồi 3 năm sau, ông từ quan và đi xuất gia lúc mới 30 tuổi. Một thời gian sau ông đóng thuyền đến cù lao Chàm ở ngoài cửa biển Hội An, dựng 3 gian am nhỏ để ở và tu trì. Thời gian thiền sư ở đảo này khoảng chục năm, tiếng tăm tu thiền của ông được nhiều người biết đến, trong số đó có Hoa lễ hầu là Tổng thái giám. Hoa Lễ Hầu tâu với Dũng quốc công Nguyễn Phúc Tần (1649-1687) về thiền sư và thiền sư được quốc công mời về trụ trì viện Thiền tịnh ở núi Qui Kỉnh. Mẹ của Nguyễn Phúc Tần và 3 con là Phúc Mỹ, Hiệp Đức và Phúc Tộ đều đến quy y cùng đông đảo quan lính .

Bấy giờ sau trận đánh năm 1648, mà kết quả là quân Trịnh đã thua và trong số tù binh quân Nguyễn bắt được có Gia quận công đã đến theo học với thiền sư. Có người dèm pha Gia quận công muốn bàn tính chuyện vượt biển về Bắc với thiền sư, Nguyễn Phúc Tần cho điều tra không có kết quả, bèn đưa thiền sư trở về Quảng Nam. Từ đó, thiền sư có ý vượt biển ra Bắc vì bị nghi ngờ . Đó là vào tháng 3 năm Nhâm Tuất (1682), lúc sư đã 55 tuổi. Cần nói thêm ở đây là Hương Hải thiền sư ngũ lục ghi thời điểm ấy sư 53 tuổi. Ghi thế rõ ràng là một nhầm lẫn, bởi vì cuối sách chép sư mất năm A? mùi, lúc đã 88 tuổi. Chữ ngũ dễ khắc lộn thành chữ tam .

Sư bèn cùng hơn 50 đồ đệ đi thuyền đến Vinh, vào yết kiến Yến quận công Trịnh Điềm (1629-1696), đang giữ chức trấn thủ vùng đất này. Sau khi khám xét và điều tra được một tháng thì Trịnh Tạc (1653-1682) đã cho Đường quận công đi đón thiền sư về kinh đô tiếp tục điều tra với những người như Lê Hy v.v… và đã xác định đúng thiền sư là người A?g Độ, Nghệ An. Bấy giờ, Trịnh Tạc mới mất , Trịnh Căn nối ngôi và ban cho sư áo mão, lương thực và tiền bạc, rồi cho về trấn Sơn Nam, giao Tước quận công Lê đình Kiên (1623-1704) giúp đỡ và thành lập viện Thiền tịnh, sau đó là chùa Nguyệt Đường ở tại phố Hiến. Chính trong thời gian ở tại chùa Nguyệt Đường này, thiền sư đã diễn dịch ra tiếng Việt 20 bộ kinh luận cùng sáng tác một số thơ văn khoảng 5 bài. Cuối cùng thiền sư đã mất vào ngày 12 tháng 5 năm A? Mùi 1715, sau khi đã phó chúc lại bài kệ :

Thời đương bát thập bát

Hốt nhiên đăng tọa thoát

Hữu lai diệc hữu khứ

Vô tử diệc vô hoạt

Pháp tính đẳng hư không

Sắc thân như bào mạt

Đông độ ly ta bà

Tây phương liên ngạc pháp

(tuổi đương tám mươi tám

Tọa thoát tự nhiên bỗng

Có đến cũng có đi

Không chết cũng không sống

Pháp tính giống hư không

Sắc thân như bọt mọn

Đông độ rời ta bà

Tây phương đài sen đón)

Trong cuộc đời 88 năm của mình, Minh Châu Hương Hải đã có những đóng góp cho dân, cho nước qua thời gian mấy năm làm quan khi còn tuổi thanh niên. Rồi đến lúc xuất gia, Minh Châu Hương Hải vẫn còn đóng góp sức mình bằng mối quan hệ chặt chẽ với những nhà lãnh đạo chính trị quân sự đương thời mình. Minh Châu Hương Hải đã có quan hệ chặt chẽ với họ Nguyễn đàng trong, đặc biệt với Hiền vương Nguyễn Phúc Tần, rồi sau đó với vua Lê Hy Tông (1676-1704) và Lê Dụ Tông (1705-1728) cùng các chúa Trịnh Tạc (1653-1682), Trịnh Căn (1683-1709) và Trịnh Cương (1709-1729) với các quan lại cao cấp của triều đình như Ứng quận công Đặng Đình Tướng (1659-1735) Tước quận công Lê Đình Kiên (1623-1704) v.v… và đã có ảnh hưởng nhất định với những vị này .

Chẳng hạn, vụ cấm đạo năm 1714 đã xảy ra với sự tham dự ít nhiều của chính thiền sư Hương Hải, như Hương Hải thiền sư ngũ lục đã ghi : "Vào một ngày rảnh, trưởng quan lại đến Nguyệt Đường gọi 3 thầy người đạo Hoa lang cùng đến trong chùa Nguyệt Đường đối đàm giảng đạo với tổ sư để xem thắng bại thế nào. 3 thầy đạo Hoa lang một tên là Tài Gia, hai tên là Tài Hữu và ba tên là Tài Chi. Trưởng quan hỏi Đạo một câu, hỏi Thích một câu. 3 thầy đạo 3 lần không nói được. Chỉ còn một Thích lời nói không dứt. Trưởng quan bảo : Đạo không bằng Thích. Hoa lang ngoa dối lời dụ dỗ để xiêu lòng người, đó gọi là tà đạo, chẳng biết nghĩa lý. Trưởng quan lại bảo, họ Thích thông lời chí lý, có sự có tích, báu pháp vô biên. Từ đó ông biết đạo là ngụy chẳng chân, liền trở về báo lên cửu trùng. Đức Thánh thượng trải 8 tháng sai quan đuổi đám Hoa lang trở về nước nó, không được ở chỗ hiến trấ? nữa "

Việc đối đàm với 3 giáo sĩ Ki tô giáo này, kiểm tra lại các tư liệu củaToà thánh Ki tô giáo La Mã, cho đến nay chưa thấy có dấu hiệu ghi chép nào cả. Tuy nhiên đây là một thông tin đầu tiên về việc quan hệ giữa Phật giáo và Ki tô giáo tại Việt Nam do phía Phật giáo truyền lại. Điều này chứng tỏ Phật giáo không đứng ngoài cuộc đấu tranh tư tưởng xảy ra trong các thế kỷ có cuộc giao lưu và quan hệ với phương Tây như có người đã lầm tưởng. Và Phật giáo giai đoạn này, chỉ qua quan hệ một mình cá nhân Minh Châu Hương Hải đã có những tác động to lớn đối với chính sách của triều đình, điều này chứng tỏ đây là thời kỳ Phật giáo phát triển rực rỡ, thể hiện đóng góp của mình trong quá trình dựng nước và giữ nước như từng xảy ra trong quá khứ .

Hương Hải thiền sư ngũ lục cũng ghi lại cuộc đàm đạo của Hương Hải thiền sư với vua Lê Dụ Tông vào năm 1714 và kết thúc bằng bài thơ tiếng Việt do Trịnh Cương (1709-1729) tặng cho thiền sư :

Danh lam từng trải đã hay danh

Trình độ này âu hợp chốn trình

Pháp giới chăm chăm tuyên diệu pháp

Kinh luân rỡ rỡ diễn chân kinh

Công nhiều nhờ có công vô lượng

Thế thuận vầy nên thế hữu tình

Ngăn tục mựa hề mùi tục lụy

Lòng thiền tua kín chốn thiền khuynh

Và Ứng quận công Tiến sĩ Đặng đình Tướng cũng làm thơ ca ngợi việc giảng kinh của thiền sư như Trịnh Cương đã làm :

Xuân hoa nhân vọng mộc thiều dương

Hà nhật giai nhân thưởng Nguyệt đường

Lão bá đình tiền trương thuý tán

Nộn hà hạm ngoại tiến kỳ hương

Băng tâm trì ấn tuyên kinh tẩu

Thiết diện tuần tường vọng đạo lương

Kỷ chủng hữu tình qui bút để

Huyền huyền vị đắc nhất thiên trường

(Hoa xuân người ngắm tấm thiều dương

Ngày rảnh giai nhân viếng Nguyệt đường

Tùng cỗi trước sân trương lọng thúy

Sen non ngoài cửa ngát mùi hương

Lòng băng trì ấn truyền kinh lão

Mặt sắt men tường ngắm giáo lương

Bao thứ hữu tình tuôn đổ bút

Thơ huyền thưởng thức một vài trương).

Và sau khi được tặng thưởng những bài thơ của vua quan như thế này, Minh Châu Hương Hải cũng không thiếu những bài thơ đáp lại. Bài sau đây là một thí dụ và chắc chắn là bài thơ của chính thiền sư tặng cho Đặng Đình Tướng :

Hướng minh qui mạng sự quân vương

Yết kiến tôn công khánh thọ trường

Tài dụng kinh luân kiêm đức hạnh

A? thi lễ nghĩa quí văn chương

Ngoại trừ đạo tặc binh nhân ái

Nội dưỡng trinh liêm sĩ tốt cường

Quyền trấn nam giao danh tứ hải

Khuông phò quốc chính lạc quần phương

(Vua sáng trở về giúp vận nên

Tôn công thăm hỏi tuổi mừng thêm

Kinh luân đức hạnh tài dùng đủ

Lễ nghĩa văn chương ý đáp đền

Ngoại trừ đạo tặc quân dân thích

Trong dưỡng trinh liêm sĩ tốt bền

Quyền trấn cõi nam tên bốn bể

Khuông phò đất nước sướng muôn bên) .

Qua những quan hệ như thế, ta thấy con người của Hương Hải có nhiều tài nhiều vẻ. Ông đã sống trong thời kỳ đất nước đang vươn mạnh về phía Nam, biên cương tổ quốc ngày càng mở rộng tưởng như không bao giờ chấm dứt, sức sống dân tộc trào dâng dào dạt. Đây là thời kỳ của những thiên tài khoa học như Chân An Tuệ Tĩnh (?-1711) thiên tài văn sử học như Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647-1726) v.v…Họ đã ra sức đóng góp cho dân tộc và thời đại mình, cố gắng xây dựng đất nước thanh bình, giàu mạnh và văn minh. Cuộc đời và con người của Minh Châu Hương Hải đã xuất hiện trong một bối cảnh như thế .

Đó là đối với đời. Còn đối với đạo, Minh Châu Hương Hải đã đào tạo ra một loạt những thế hệ người kế thừa sự nghiệp truyền bá Phật giáo của mình mà tên tuổi còn được ghi lại trong Hương Hải thiền sư ngữ lục. Theo tài liệu này và căn cứ bài kệ truyền pháp của thiền phái Lâm Tế dòng Trí Bảng Đột Không :

Trí tuệ thanh tịnh

Đạo đức viên minh

Chân như tính hải

Tịch chiếu phổ thông

Thì những đệ tử trực tiếp vào hàng chữ Chân của bài kệ gồm có Chân Lý Hiển Mật, Chân Tạng Mật Hạnh, Chân Chiếu Hoa Mỹ, Chân Tông Quảng Trí, Chân Quý Phổ Ứng, Chân truyền Quang Tán, Chân Tịch Khổ Hạnh, Chân Thành Bồ Đề, Chân Thường, Chân Cảnh, Chân Thước, Chân Ý, Chân Thị, Chân Thuần, Chân Đẳng, Chân Bình, Chân Pháp, Chân Quản, Chân Trí, Chân Bảo, Chân Thưởng, Chân Đông, Chân Dung, Chân Quả, Chân Viên, Chân Kinh, Chân Tịnh, Chân Quang, ngoài ra cộng thêm 1 số vị thành hơn 70. Đến những đệ tử hàng chữ Như của những vị có chữ Chân vừa kể, ta có tăng thống Như Nguyệt Hoa Quang, Như Tông, Như Túc, Như Khoản, Như Nhật, Như Đài, Như Bảo, Như Sơn, Như Thừa, Như Cống, Như Thiên, Như Hiền, Như Nhẫn, tăng thống Như Toàn, Như Biện, Như Đề, Như Viên, Như Kiên, Như Phái, Như Mật, Như Cảnh, Như Hải, Như Khanh, Như Nghiệm. Rồi đến hàng đệ tử của những vị vừa nêu, có pháp danh bắt đầu với chữ Tính, ta có tăng thống Tính Thanh, Tính Liễn, Tính Kế Đạm Hạnh, Tính Khả, Tính Lâm, Tính Duệ, Tính Thước, Tính Tường, Tính Mẫn, Tính Nhu, Tính Định, Tính Mỗ, Tính A?h, Tính Trác, Tính Đức, Tính Trí, Tính Lãng, Tính Năng, Tính Tiếp, Tính Phụng, Tính Xán, Tính Tuyên, Tính Hằng. Đến hàng đệ tử của những vị vừa kể, bắt đầu pháp danh với chữ Hải ta có tăng phó Hải Bồi, tăng phó Hải Triều, Hải Đường, Hải Nhã, Hải Đồng, Hải Diên, Hải Lịch, Hải Khoát, Hải Liên, Hải Trung v.v…

Qua bản danh sách này, 30 năm sau khi Minh Châu Hương Hải mất, dòng thiền của ông đã phát triển rực rỡ, trong số ấy có những người là những đại biểu long tượng cho Phật giáo như Như Nguyệt Hoa Quang mà tiểu sử phần nào đã được Lê Quý Đôn ghi lại trong Kiến văn tiểu lục 9 tờ 33b3-34a4. Cũng có những người đã kế nghiệp thầy mình trong địa hạt sáng tác như tăng chính Như Sơn, tác giả bộ Ngự chế thiền điển thống yếu kế đăng lục, và có những người đã đóng góp vào việc in lại những sử sách xưa như Tính Lãng, người bạn thiền của thiền sư Tính Quảng Điều Điều đã đứng ra in lại danh tác Thánh đăng ngữ lục và yêu cầu Tính Quảng viết tựa và đến thế kỷ thứ 19 dòng thiền của Minh Châu Hương Hải còn được biết qua những người như Tịch Truyền, Tịch Yên, và đệ tử của những vị này như Chiếu Khoa, Chiếu Tân v.v…Chiếu Tân là người đã đứng ra in bộ Pháp hoa quốc ngữ kinh của Pháp Liên vào năm 1856. Chiếu Kiên góp vào việc in lại Giải tâm kinh ngũ chỉ vào năm Minh Mạng thứ 14 (1834). Như vậy trong hai thế kỷ 18 và 19, dòng thiền của Minh Châu Hương Hải đã phát triển rầm rộ .

Để dựng nên một dòng thiền phát triển rầm rộ như thế, Minh Châu Hương Hải đã biến viện Thiền tịnh đơn sơ ban đầu vào những năm 1683, 1685 thành một ngôi tổ đình làm trung tâm văn hoá giáo dục, liên tục đào tạo ra những thế hệ thiền sư có danh tiếng vừa kể. Ngôi tổ đình này được ghi lại khá kỹ quá trình xây dựng và kết cấu cơ sở vật chất tương đối đầy đủ trong Hương Hải thiền sư ngữ lục, đóng góp vào việc tìm hiểu cách kiến trúc và lối thờ tự của dân tộc ta vào thời ấy. Điều đáng tiếc là tổ đình này chỉ mới hơn 200 năm qua, bây giờ không còn một dấu vết gì nữa ngoài 2 tháp mộ là nơi yên nghỉ cuối cùng của Minh Châu Hương Hải và người cao đệ Viên Thông phương trượng hoà thượng Chân Lý Hiển Mật. Nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban trị sự Phật giáo tỉnh Hưng Yên, chúng tôi đã có dịp vào thăm tận nơi hai ngôi tháp mộ này, bây giờ đang nằm trong khuôn viên của nhà dân. Chúng tôi có đề nghị với chư vị lãnh đạo Giáo hội tỉnh Hưng Yên xin khôi phục tổ đình Nguyệt đường. Nếu chưa được thì tối thiểu xin khôi phục lại khuôn viên hai tháp mộ của thiền sư Minh Châu Hương Hải và thiền sư Chân Lý Hiển Mật thành những di tích lịch sử văn hoá, làm nơi thăm viếng và giáo dục truyền thống yêu nước cho con cháu về sau .

Tuy nhiên, đóng góp to lớn nhất cho đạo của Minh Châu Hương Hải vẫn chủ yếu nằm trong sự nghiệp trước tác, thể hiện những suy nghĩ của bản thân và âu lo trước tiền đồ của Phật giáo cũng như dân tộc .


---o0o---
Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử tập sách này
(Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 6018)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
24/06/2011(Xem: 8401)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 5451)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 5926)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 6889)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 7611)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 5155)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 6583)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 6544)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 14496)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]