Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

I-Niên Ðại và con người

21/05/201312:32(Xem: 9415)
I-Niên Ðại và con người

TOÀN TẬP 
MINH CHÂU HƯƠNG HẢI 

Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành 2000

--o0o--

I.

NIÊN ĐẠI VÀ CON NGƯỜI

Về lai lịch, vì hai trang đầu của Hương Hải thiền sư ngũ lục đã bị mất trong bản in chúng tôi hiện có, nên nếu dựa vào những ghi chép của Lê quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục 9, thì ta biết Minh Châu Hương Hải thuộc vào một danh gia thế phiệt của miền Nam nước ta vào thời ông. Tổ tiên 4 đời là Khởi nghĩa kiệt tiết công thần Trung lộc hầu, người A?g Độ, Nghi Lộc, Nghệ An, theo phò Nguyễn Hoàng và đến sống tại Quảng Nam. Hương Hải đã sinh ra tại vùng đất này, tại làng Bình An thượng, phủ Thăng Hoa, tỉnh Quảng Nam hiện nay vào năm 1628. Năm 18 tuổi ông thi đỗ Hương tiến và được bổ làm tri phủ Triệu phong. Năm Mậu Thìn (1652), ông đến thụ giáo với thiền sư Lục Hồ Vân Cảnh, được đặt pháp tự Minh Châu Hương Hải và pháp hiệu Huyền Cơ Thiện Giác, tiếp đến lại tới học đạo với thiền sư Viên Khoai Đại Thâm. Rồi 3 năm sau, ông từ quan và đi xuất gia lúc mới 30 tuổi. Một thời gian sau ông đóng thuyền đến cù lao Chàm ở ngoài cửa biển Hội An, dựng 3 gian am nhỏ để ở và tu trì. Thời gian thiền sư ở đảo này khoảng chục năm, tiếng tăm tu thiền của ông được nhiều người biết đến, trong số đó có Hoa lễ hầu là Tổng thái giám. Hoa Lễ Hầu tâu với Dũng quốc công Nguyễn Phúc Tần (1649-1687) về thiền sư và thiền sư được quốc công mời về trụ trì viện Thiền tịnh ở núi Qui Kỉnh. Mẹ của Nguyễn Phúc Tần và 3 con là Phúc Mỹ, Hiệp Đức và Phúc Tộ đều đến quy y cùng đông đảo quan lính .

Bấy giờ sau trận đánh năm 1648, mà kết quả là quân Trịnh đã thua và trong số tù binh quân Nguyễn bắt được có Gia quận công đã đến theo học với thiền sư. Có người dèm pha Gia quận công muốn bàn tính chuyện vượt biển về Bắc với thiền sư, Nguyễn Phúc Tần cho điều tra không có kết quả, bèn đưa thiền sư trở về Quảng Nam. Từ đó, thiền sư có ý vượt biển ra Bắc vì bị nghi ngờ . Đó là vào tháng 3 năm Nhâm Tuất (1682), lúc sư đã 55 tuổi. Cần nói thêm ở đây là Hương Hải thiền sư ngũ lục ghi thời điểm ấy sư 53 tuổi. Ghi thế rõ ràng là một nhầm lẫn, bởi vì cuối sách chép sư mất năm A? mùi, lúc đã 88 tuổi. Chữ ngũ dễ khắc lộn thành chữ tam .

Sư bèn cùng hơn 50 đồ đệ đi thuyền đến Vinh, vào yết kiến Yến quận công Trịnh Điềm (1629-1696), đang giữ chức trấn thủ vùng đất này. Sau khi khám xét và điều tra được một tháng thì Trịnh Tạc (1653-1682) đã cho Đường quận công đi đón thiền sư về kinh đô tiếp tục điều tra với những người như Lê Hy v.v… và đã xác định đúng thiền sư là người A?g Độ, Nghệ An. Bấy giờ, Trịnh Tạc mới mất , Trịnh Căn nối ngôi và ban cho sư áo mão, lương thực và tiền bạc, rồi cho về trấn Sơn Nam, giao Tước quận công Lê đình Kiên (1623-1704) giúp đỡ và thành lập viện Thiền tịnh, sau đó là chùa Nguyệt Đường ở tại phố Hiến. Chính trong thời gian ở tại chùa Nguyệt Đường này, thiền sư đã diễn dịch ra tiếng Việt 20 bộ kinh luận cùng sáng tác một số thơ văn khoảng 5 bài. Cuối cùng thiền sư đã mất vào ngày 12 tháng 5 năm A? Mùi 1715, sau khi đã phó chúc lại bài kệ :

Thời đương bát thập bát

Hốt nhiên đăng tọa thoát

Hữu lai diệc hữu khứ

Vô tử diệc vô hoạt

Pháp tính đẳng hư không

Sắc thân như bào mạt

Đông độ ly ta bà

Tây phương liên ngạc pháp

(tuổi đương tám mươi tám

Tọa thoát tự nhiên bỗng

Có đến cũng có đi

Không chết cũng không sống

Pháp tính giống hư không

Sắc thân như bọt mọn

Đông độ rời ta bà

Tây phương đài sen đón)

Trong cuộc đời 88 năm của mình, Minh Châu Hương Hải đã có những đóng góp cho dân, cho nước qua thời gian mấy năm làm quan khi còn tuổi thanh niên. Rồi đến lúc xuất gia, Minh Châu Hương Hải vẫn còn đóng góp sức mình bằng mối quan hệ chặt chẽ với những nhà lãnh đạo chính trị quân sự đương thời mình. Minh Châu Hương Hải đã có quan hệ chặt chẽ với họ Nguyễn đàng trong, đặc biệt với Hiền vương Nguyễn Phúc Tần, rồi sau đó với vua Lê Hy Tông (1676-1704) và Lê Dụ Tông (1705-1728) cùng các chúa Trịnh Tạc (1653-1682), Trịnh Căn (1683-1709) và Trịnh Cương (1709-1729) với các quan lại cao cấp của triều đình như Ứng quận công Đặng Đình Tướng (1659-1735) Tước quận công Lê Đình Kiên (1623-1704) v.v… và đã có ảnh hưởng nhất định với những vị này .

Chẳng hạn, vụ cấm đạo năm 1714 đã xảy ra với sự tham dự ít nhiều của chính thiền sư Hương Hải, như Hương Hải thiền sư ngũ lục đã ghi : "Vào một ngày rảnh, trưởng quan lại đến Nguyệt Đường gọi 3 thầy người đạo Hoa lang cùng đến trong chùa Nguyệt Đường đối đàm giảng đạo với tổ sư để xem thắng bại thế nào. 3 thầy đạo Hoa lang một tên là Tài Gia, hai tên là Tài Hữu và ba tên là Tài Chi. Trưởng quan hỏi Đạo một câu, hỏi Thích một câu. 3 thầy đạo 3 lần không nói được. Chỉ còn một Thích lời nói không dứt. Trưởng quan bảo : Đạo không bằng Thích. Hoa lang ngoa dối lời dụ dỗ để xiêu lòng người, đó gọi là tà đạo, chẳng biết nghĩa lý. Trưởng quan lại bảo, họ Thích thông lời chí lý, có sự có tích, báu pháp vô biên. Từ đó ông biết đạo là ngụy chẳng chân, liền trở về báo lên cửu trùng. Đức Thánh thượng trải 8 tháng sai quan đuổi đám Hoa lang trở về nước nó, không được ở chỗ hiến trấ? nữa "

Việc đối đàm với 3 giáo sĩ Ki tô giáo này, kiểm tra lại các tư liệu củaToà thánh Ki tô giáo La Mã, cho đến nay chưa thấy có dấu hiệu ghi chép nào cả. Tuy nhiên đây là một thông tin đầu tiên về việc quan hệ giữa Phật giáo và Ki tô giáo tại Việt Nam do phía Phật giáo truyền lại. Điều này chứng tỏ Phật giáo không đứng ngoài cuộc đấu tranh tư tưởng xảy ra trong các thế kỷ có cuộc giao lưu và quan hệ với phương Tây như có người đã lầm tưởng. Và Phật giáo giai đoạn này, chỉ qua quan hệ một mình cá nhân Minh Châu Hương Hải đã có những tác động to lớn đối với chính sách của triều đình, điều này chứng tỏ đây là thời kỳ Phật giáo phát triển rực rỡ, thể hiện đóng góp của mình trong quá trình dựng nước và giữ nước như từng xảy ra trong quá khứ .

Hương Hải thiền sư ngũ lục cũng ghi lại cuộc đàm đạo của Hương Hải thiền sư với vua Lê Dụ Tông vào năm 1714 và kết thúc bằng bài thơ tiếng Việt do Trịnh Cương (1709-1729) tặng cho thiền sư :

Danh lam từng trải đã hay danh

Trình độ này âu hợp chốn trình

Pháp giới chăm chăm tuyên diệu pháp

Kinh luân rỡ rỡ diễn chân kinh

Công nhiều nhờ có công vô lượng

Thế thuận vầy nên thế hữu tình

Ngăn tục mựa hề mùi tục lụy

Lòng thiền tua kín chốn thiền khuynh

Và Ứng quận công Tiến sĩ Đặng đình Tướng cũng làm thơ ca ngợi việc giảng kinh của thiền sư như Trịnh Cương đã làm :

Xuân hoa nhân vọng mộc thiều dương

Hà nhật giai nhân thưởng Nguyệt đường

Lão bá đình tiền trương thuý tán

Nộn hà hạm ngoại tiến kỳ hương

Băng tâm trì ấn tuyên kinh tẩu

Thiết diện tuần tường vọng đạo lương

Kỷ chủng hữu tình qui bút để

Huyền huyền vị đắc nhất thiên trường

(Hoa xuân người ngắm tấm thiều dương

Ngày rảnh giai nhân viếng Nguyệt đường

Tùng cỗi trước sân trương lọng thúy

Sen non ngoài cửa ngát mùi hương

Lòng băng trì ấn truyền kinh lão

Mặt sắt men tường ngắm giáo lương

Bao thứ hữu tình tuôn đổ bút

Thơ huyền thưởng thức một vài trương).

Và sau khi được tặng thưởng những bài thơ của vua quan như thế này, Minh Châu Hương Hải cũng không thiếu những bài thơ đáp lại. Bài sau đây là một thí dụ và chắc chắn là bài thơ của chính thiền sư tặng cho Đặng Đình Tướng :

Hướng minh qui mạng sự quân vương

Yết kiến tôn công khánh thọ trường

Tài dụng kinh luân kiêm đức hạnh

A? thi lễ nghĩa quí văn chương

Ngoại trừ đạo tặc binh nhân ái

Nội dưỡng trinh liêm sĩ tốt cường

Quyền trấn nam giao danh tứ hải

Khuông phò quốc chính lạc quần phương

(Vua sáng trở về giúp vận nên

Tôn công thăm hỏi tuổi mừng thêm

Kinh luân đức hạnh tài dùng đủ

Lễ nghĩa văn chương ý đáp đền

Ngoại trừ đạo tặc quân dân thích

Trong dưỡng trinh liêm sĩ tốt bền

Quyền trấn cõi nam tên bốn bể

Khuông phò đất nước sướng muôn bên) .

Qua những quan hệ như thế, ta thấy con người của Hương Hải có nhiều tài nhiều vẻ. Ông đã sống trong thời kỳ đất nước đang vươn mạnh về phía Nam, biên cương tổ quốc ngày càng mở rộng tưởng như không bao giờ chấm dứt, sức sống dân tộc trào dâng dào dạt. Đây là thời kỳ của những thiên tài khoa học như Chân An Tuệ Tĩnh (?-1711) thiên tài văn sử học như Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647-1726) v.v…Họ đã ra sức đóng góp cho dân tộc và thời đại mình, cố gắng xây dựng đất nước thanh bình, giàu mạnh và văn minh. Cuộc đời và con người của Minh Châu Hương Hải đã xuất hiện trong một bối cảnh như thế .

Đó là đối với đời. Còn đối với đạo, Minh Châu Hương Hải đã đào tạo ra một loạt những thế hệ người kế thừa sự nghiệp truyền bá Phật giáo của mình mà tên tuổi còn được ghi lại trong Hương Hải thiền sư ngữ lục. Theo tài liệu này và căn cứ bài kệ truyền pháp của thiền phái Lâm Tế dòng Trí Bảng Đột Không :

Trí tuệ thanh tịnh

Đạo đức viên minh

Chân như tính hải

Tịch chiếu phổ thông

Thì những đệ tử trực tiếp vào hàng chữ Chân của bài kệ gồm có Chân Lý Hiển Mật, Chân Tạng Mật Hạnh, Chân Chiếu Hoa Mỹ, Chân Tông Quảng Trí, Chân Quý Phổ Ứng, Chân truyền Quang Tán, Chân Tịch Khổ Hạnh, Chân Thành Bồ Đề, Chân Thường, Chân Cảnh, Chân Thước, Chân Ý, Chân Thị, Chân Thuần, Chân Đẳng, Chân Bình, Chân Pháp, Chân Quản, Chân Trí, Chân Bảo, Chân Thưởng, Chân Đông, Chân Dung, Chân Quả, Chân Viên, Chân Kinh, Chân Tịnh, Chân Quang, ngoài ra cộng thêm 1 số vị thành hơn 70. Đến những đệ tử hàng chữ Như của những vị có chữ Chân vừa kể, ta có tăng thống Như Nguyệt Hoa Quang, Như Tông, Như Túc, Như Khoản, Như Nhật, Như Đài, Như Bảo, Như Sơn, Như Thừa, Như Cống, Như Thiên, Như Hiền, Như Nhẫn, tăng thống Như Toàn, Như Biện, Như Đề, Như Viên, Như Kiên, Như Phái, Như Mật, Như Cảnh, Như Hải, Như Khanh, Như Nghiệm. Rồi đến hàng đệ tử của những vị vừa nêu, có pháp danh bắt đầu với chữ Tính, ta có tăng thống Tính Thanh, Tính Liễn, Tính Kế Đạm Hạnh, Tính Khả, Tính Lâm, Tính Duệ, Tính Thước, Tính Tường, Tính Mẫn, Tính Nhu, Tính Định, Tính Mỗ, Tính A?h, Tính Trác, Tính Đức, Tính Trí, Tính Lãng, Tính Năng, Tính Tiếp, Tính Phụng, Tính Xán, Tính Tuyên, Tính Hằng. Đến hàng đệ tử của những vị vừa kể, bắt đầu pháp danh với chữ Hải ta có tăng phó Hải Bồi, tăng phó Hải Triều, Hải Đường, Hải Nhã, Hải Đồng, Hải Diên, Hải Lịch, Hải Khoát, Hải Liên, Hải Trung v.v…

Qua bản danh sách này, 30 năm sau khi Minh Châu Hương Hải mất, dòng thiền của ông đã phát triển rực rỡ, trong số ấy có những người là những đại biểu long tượng cho Phật giáo như Như Nguyệt Hoa Quang mà tiểu sử phần nào đã được Lê Quý Đôn ghi lại trong Kiến văn tiểu lục 9 tờ 33b3-34a4. Cũng có những người đã kế nghiệp thầy mình trong địa hạt sáng tác như tăng chính Như Sơn, tác giả bộ Ngự chế thiền điển thống yếu kế đăng lục, và có những người đã đóng góp vào việc in lại những sử sách xưa như Tính Lãng, người bạn thiền của thiền sư Tính Quảng Điều Điều đã đứng ra in lại danh tác Thánh đăng ngữ lục và yêu cầu Tính Quảng viết tựa và đến thế kỷ thứ 19 dòng thiền của Minh Châu Hương Hải còn được biết qua những người như Tịch Truyền, Tịch Yên, và đệ tử của những vị này như Chiếu Khoa, Chiếu Tân v.v…Chiếu Tân là người đã đứng ra in bộ Pháp hoa quốc ngữ kinh của Pháp Liên vào năm 1856. Chiếu Kiên góp vào việc in lại Giải tâm kinh ngũ chỉ vào năm Minh Mạng thứ 14 (1834). Như vậy trong hai thế kỷ 18 và 19, dòng thiền của Minh Châu Hương Hải đã phát triển rầm rộ .

Để dựng nên một dòng thiền phát triển rầm rộ như thế, Minh Châu Hương Hải đã biến viện Thiền tịnh đơn sơ ban đầu vào những năm 1683, 1685 thành một ngôi tổ đình làm trung tâm văn hoá giáo dục, liên tục đào tạo ra những thế hệ thiền sư có danh tiếng vừa kể. Ngôi tổ đình này được ghi lại khá kỹ quá trình xây dựng và kết cấu cơ sở vật chất tương đối đầy đủ trong Hương Hải thiền sư ngữ lục, đóng góp vào việc tìm hiểu cách kiến trúc và lối thờ tự của dân tộc ta vào thời ấy. Điều đáng tiếc là tổ đình này chỉ mới hơn 200 năm qua, bây giờ không còn một dấu vết gì nữa ngoài 2 tháp mộ là nơi yên nghỉ cuối cùng của Minh Châu Hương Hải và người cao đệ Viên Thông phương trượng hoà thượng Chân Lý Hiển Mật. Nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban trị sự Phật giáo tỉnh Hưng Yên, chúng tôi đã có dịp vào thăm tận nơi hai ngôi tháp mộ này, bây giờ đang nằm trong khuôn viên của nhà dân. Chúng tôi có đề nghị với chư vị lãnh đạo Giáo hội tỉnh Hưng Yên xin khôi phục tổ đình Nguyệt đường. Nếu chưa được thì tối thiểu xin khôi phục lại khuôn viên hai tháp mộ của thiền sư Minh Châu Hương Hải và thiền sư Chân Lý Hiển Mật thành những di tích lịch sử văn hoá, làm nơi thăm viếng và giáo dục truyền thống yêu nước cho con cháu về sau .

Tuy nhiên, đóng góp to lớn nhất cho đạo của Minh Châu Hương Hải vẫn chủ yếu nằm trong sự nghiệp trước tác, thể hiện những suy nghĩ của bản thân và âu lo trước tiền đồ của Phật giáo cũng như dân tộc .


---o0o---
Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử tập sách này
(Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/06/2011(Xem: 13250)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
01/06/2011(Xem: 7004)
Cuộc đời và sự nghiệp của Khương Tăng Hội, ta hiểu biết qua hai bản tiểu sử xưa nhất, một của Tăng Hựu (446 - 511) trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 96a29-97a 17 và một của Huệ Hạo trong Cao Tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 325a13-326b13. Bản của Huệ Hạo thực ra là một sao bản của bản Tăng Hựu với hai thêm thắt. Đó là việc nhét tiểu sử của Chi Khiêm ở đoạn đầu và việc ghi ảnh hưởng của Khương Tăng Hội đối với Tô Tuấn và Tôn Xước ở đoạn sau, cùng lời bình về sai sót của một số tư liệu. Việc nhét thêm tiểu sử của Chi Khiêm xuất phát từ yêu cầu phải ghi lại cuộc đời đóng góp to lớn của Khiên đối với lịch sử truyền bá Phật giáo của Trung Quốc, nhưng vì Khiêm là một cư sĩ và Cao Tăng truyện vốn chỉ ghi chép về các Cao Tăng, nên không thể dành riêng ra một mục, như Tăng Hựu đã làm trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 97b13-c18, cho Khiêm.
31/05/2011(Xem: 18295)
Quy ẩn, thế thôi ! (Viết để thương một vị Thầy, mỗi lần gặp nhau thường nói “mình có bạn rồi” dù chỉtrong một thời gian rất ngắn. Khi Thầy và tôi cách biệt, thỉnh thoảng còn gọi điệnthoại thăm nhau) Hôm nay Thầy đã đi rồi Sắc không hai nẻo xa xôi muôn ngàn Ai đem lay ánh trăng vàng Để cho bóng nguyệt nhẹ nhàng lung linh Vô thường khép mở tử sinh Rong chơi phù thế bóng hình bụi bay Bảo rằng, bản thể xưa nay Chơn như hằng viễn tỏ bày mà chi
27/05/2011(Xem: 9631)
Vào năm 247, một vài năm sau khi Chi Khiêm rời khỏi kinh đô Kiến Nghiệp, Khương Tăng Hội, một vị cao tăng gốc miền Trung Á, đã đến đây. Ngài đến từ Giao Chỉ, thủ phủ của Giao Châu ở miền cực Nam của đế quốc Trung Hoa (gần Hà nội ngày nay). Gia đình của Ngài đã sinh sống ở Ấn độ trải qua nhiều thế hệ; thân phụ của Ngài, một thương gia, đến định cư ở thành phố thương mại quan trọng này.
25/05/2011(Xem: 5154)
Đại lão Hòa Thượng Thích Đồng Huy HT. Thích Đồng Huy - Thành viên HĐCM, Ủy viên HĐTSTW GHPGVN, Trưởng ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Trưởng ban Quản trị Đại Tòng Lâm, Viện chủ Tu viện Vạn Hạnh.
05/05/2011(Xem: 5756)
Từ hôm hay tin Thầy lâm bịnh và tiếng nói yếu ớt của Thầy qua điện thoại làm con rất lo. Nhiều năm qua con cố gắng về thăm Thầy một lần nhưng ước vọng đơn sơ ấy đã không toại nguyện. Hơn hai mươi năm con xa Thầy, xa Tu viện, xa đồi núi thương yêu thưở nào. Mai này nếu được về thăm thì thầy đã ra đi biền biệt.
23/04/2011(Xem: 5325)
Thầy đã đọc toàn bộ bài “Tham luận” Nhân trong ngày “Hội thảo” nhớ “Tổ Sư”, Sự nghiệp tu chứng đắc lý chơn như “Ngài Liễu Quán”, sáng gương ngàn thế hệ.
21/04/2011(Xem: 8206)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
16/04/2011(Xem: 7186)
Kính lạy thầy, Trước mắt con là di bút Thầy để lại, nét chữ thân quen với màu mực còn đậm nét tinh khôi. Nghiệp đã qua rồi lòng nhẹ nhõm Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong Thầy vừa an nhiên xã bỏ báo thân, dãi mây bạc giờ nương theo gió loãng tan mất dấu. Nẻo sinh tử Thầy thong dong qua lại, như đi trên những dặm đường quen để gieo trồng hạt giống từ bi, giáo hóa, độ sinh. Thân bệnh Thầy mang trong những năm tháng sau này, cho con biết rõ vô thường tất đến. Vậy mà nỗi đau đớn, bàng hoàng vẫn khơi động trong con khi đón nhận tin xa, bởi từ đây con vĩnh viễn mất Thầy trong kiếp sống này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]