Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiết VI

02/05/201317:26(Xem: 5544)
Tiết VI


TÂY PHƯƠNG NHỰT KHÓA
HT. Thích Thiền Tâm
Soạn thuật
---o0o---

CHƯƠNG III

TIẾT VI

GIẢI-THÍCH CÂU NGUYỆN

PHÁT TÂM BỒ-ÐỀ

(Từ trước đến đây (Phần I đến phần V) bút giả đã giải-thích về những ý-nghĩa của các câu kệ tán-tụng dùng trong khóa-lễ rồi ...

Trong phần VI nầy, xin được giải-thích về phương-cách "phát-tâm Vô-thượng Bồ-đề"trong pháp-môn tu Tịnh-độ- trước khi hành-giả bắt đầu NIỆM PHẬT.)

Giải-Thích câu:

- "NGÃ KIM phổ-Vị tứ-ân, tam-hữu cập PHÁP-GIỚI CHÚNG-SANH CẦU ư chư PHẬT NHỨT THỪA VÔ-THƯỢNG BỒ-ÐỀ, ÐẠO cố. Chuyên-tâm trì-niệm A-DI-ÐÀ PHẬT, vạn-đức hồng-danh, cầu sanh CỰC-LẠC.

Duy-nguyện:

- Từ-phụ A-DI-ÐÀ PHẬT từ-bi gia-hộ, ai-lân nhiếp-thọ."

Nghĩa là:

- CON NAY khắp VÌ bốn ân, ba cõi cùng PHÁP-GIỚI CHÚNG-SANH CẦU nơi ÐẠO NHỨT THỪA VÔ-THƯỢNG BỒ-ÐỀ CỦA PHẬT. Chuyên tâm trì-niệm muôn đức hồng-danh A-DI-ÐÀ PHẬT, cầu được sanh về CỰC-LẠC.

Nguyện xin:

- Ðức cha lành A-DI-ÐÀ PHẬT từ-bi gia-hộ, thương-xót nhiếp-thọ (cho con được vãng-sanh về nơi Cực-lạc).

Trong câu phát-nguyện nầy (ở phần Âm Hán-Việt)quý Phật-tử phải nên để-ý đến mấy chữ viết HOA, tất sẽ thấy các chữ ấy nếu như được kết-hợp lại thì thành ra một câu nguyện nhỏ như sau:

- NGÃ KIM VỊ PHÁP-GIỚI CHÚNG-SANH, CẦU PHẬT NHỨT THỪA VÔ-THƯỢNG BỒ-ÐỀ ÐẠO ...

Tức là:

- CON NAY VÌ PHÁP-GIỚI CHÚNG-SANH (MÀ)CẦU ÐẠO NHỨT THỪA VÔ-THƯỢNG BỒ-ÐỀ CỦA PHẬT ...

- Chữ NGÃ đây có nghĩa là Ta, là bản thân của mình hiện đang quỳ trước bàn thờ, chí-thành, trân-trọng và chấp tay cung-kính lễ PHẬT.

- Chữ KIM là ngay bây giờ, hiện-tại đây.

- Chữ PHỔ-VỊ, thì PHỔ là phổ-cập, là cùng khắp hết tất-cả, còn chữ VỊ là vì (người nào đó, vì ai đó vv ...)

Như vậy thì:

- Ngày hôm nay thử hỏi ta vì ai mà niệm PHẬT đây ?

Nếu như nói theo cái tánh tự-kỷ cố-hữu của ta (và chúng-sanh) thì mình sẽ nói rằng:

Ta niệm PHẬT đây là vì TA muốn TA được vãng-sanh (về Cực-lạc cho khỏe, khỏi còn phải lo-sợ sanh-tử nữa).

Nói như thế thì cũng đúng, vì phải độ mình trước hết cái đã, mình phải vãng-sanh xong cái đã, rồi muốn sao cũng được. Nhưng nếu chỉ có nói và hành như thế, khi xong được việc (giải thoát)rồi thôi, mà sau đó không chịu phát-tâm tiếp theo để vì:

Tứ ân, Tam-hữu và pháp-giới chúng-sanh.

(Bốn ân, ba hữu và pháp-giới chúng-sanh)

thì TA thành ra là người ích-kỷ, vì chỉ biết tự lo cho mình mà bỏ chúng-sanh - Như thế là không hợp với tâm "PHỔ-ÐỘ CHÚNG-SANH" (độ khắp chúng-sanh)của chư PHẬT, chư Bồ-tát và cũng không xứng-hợp được với đại-nguyện của đức PHỔ-HIỀN nữa.

Vì thế cho nên chư Tổ-sư dạy ta phải:

- Vì bốn ân, ba hữu và pháp-giới chúng-sanh MÀ NIỆM-PHẬT.

Ðến đây,

Trước hết xin được giải-thích về chữ TỨ-ÂN (Bốn ân) như sau:

1. SAO GỌI LÀ VÌ "BỐN ÂN" ? :

Bốn ân là: Ơn Phật, ơn thầy, ơn cha mẹ và ơn chúng-sanh.

Bốn ân nầy rất ư quan-trọng, là người Phật-tử, thì dù xuất-gia hay tại-gia (đi chăng nữa)cũng phải hằng luôn mang lòng tưởng-nhớ.

Tổ-sư dạy:

a. Sao gọi là vì "nghĩ đến ơn PHẬT" ?:

Nghĩ đến ơn PHẬT là như thế nầy:

- Như đức THÍCH-TÔN ta, khi mới phát-tâm, phương-tiện giáo-hóa, mà ta ngu-si, không chịu tin theo. Ta đọa ác đạo, PHẬT lại càng thương, muốn thay chịu khổ.

Nhưng ta nghiệp nặng, không thể cứu vớt.

Ta sanh làm người, PHẬT dùng phương-tiện, khiến gieo căn lành, nhiều kiếp theo dõi, lòng không tạm bỏ.

PHẬT mới ứng-thế, ta còn trầm-luân. Nay được thân người, PHẬT đã diệt độ.

Thử hỏi ta đây:

- Tội chi mà sanh nhằm thời mạt-pháp ?

- Phước gì mà được dự chốn tăng-luân ?

- Chướng chi mà không thấy kim-thân ?

- May gì mà được gặp thánh-tượng ?

Rồi ta phải tự suy-nghĩ rằng:

- Nếu đời trước không trồng căn lành, thì kiếp nầy làm sao được nghe Phật-pháp ?

- Nếu như không nghe được chánh-pháp, thì làm sao biết mình thường thọ Phật-ân ?

Ân-đức nầy, sánh ra ắt biển thẳm không cùng, non cao khó ví.

Nếu như ta không phát-tâm Bồ-đề, tu Bồ-tát hạnh, giữ vững chánh-pháp, cứu độ chúng-sanh ... thì dù cho thịt nát, xương tan đi nữa, cũng chẳng thể báo đền được trong muôn một. "

Ðây gọi là vì nghĩ đến ơn PHẬT mà tu và phát tâm "vô-thượng Bồ-đề" vậy.

b. Sao gọi là vì nghĩ đến "ơn THẦY" (Tổ)

Nghĩ đến ơn Thầy (Tổ) là như vầy:

- "Cha mẹ tuy sanh ra sắc-thân ta, nhưng nếu không có thầy thế-gian dạy bảo, thì ta chẳng hiểu biết NGHĨA, NHƠN.

- Còn nếu như không có thầy xuất-thế dắt-dìutất-nhiên ta chẳng am-tường Phật-Pháp.

Mà nếu như:

- Không biết lễ, nghĩa, liêm-sỉ thì nào khác chi các loài cầm-thú ?

- Không tường Phật-pháp, nhơn-quả thì đâu khác gì các hạng ngu-mông ?

Nay ta đây:

- Biết chút-ít lễ-nghĩa liêm-sỉ và hiểu được đôi phần Phật-pháp là nhờ đâu ?

Huống nữa nay ta duyên may được dự vào hàng xuất-gia, tấm thân giới-phẩm đã nhuận phần đức-hạnh, áo cà-sa thêm rạng vẻ phước-điền. Thật ra đều nhờ nơi sư-trưởng mà được.

Ðã biết như thế, nên nếu ta cầu tiểu-quả (Thanh-văn, Duyên-giác)thì chỉ có thể lợi riêng cho mình mà thôi. Vậy ta phải phát đại tâm (Bồ-tát)mới mong độ khắp các loài hàm-thức.

Như vậy thì:

- Thầy thế-gian mới được lợi-ích.

và,

- Thầy xuất thế cũng được vui lòng.

Ðây gọi là: Vì nghĩ đến ơn Thầy (Tổ)mà TU và phát tâm "Vô-thượng Bồ-đề" vậy.

c. Sao gọi là vì nghĩ đến "ơn cha-mẹ" ? ...

Nghĩ đến ơn cha-mẹ là như thế nầy:

- "Than-ôi!

Cha-mẹ sanh ta khó-nhọc, mười tháng mang thai mỏi, nặng, ba năm bú sữa, mớn cơm. Ðến khi ta khôn lớn, trưởng thành, mong sao cho ta nối dõi được tông-đường, cúng thờ liên-tổ.

Ngờ đâu ta đã xuất-gia, lạm-xưng Thích-tử, không dâng cơm nước, chẳng đở tay chân. Cha mẹ còn ta không thể nuôi-dưỡng thân già, cha mẹ chết ta chưa thể dắt-dìu thần-thức !

Chừng hồi-tưởng lại, thì:

Nước, trời đã cách-biệt từ-dung,

Mộ biếc chỉ hắt-hiu thu-thảo.

Như thế:

- Ðối với đời là một lỗi lớn !

- Ðối với đạo lại chẳng ích chi !

Hai đường đã lỗi, khó tránh tội khiên!

Nhĩ như thế rồi, làm sao chuộc lại ?

- Chỉ có trăm kiếp, ngàn đời, tu Bồ-tát hạnh.

- Mười phương, ba cõi, độ khắp chúng-sanh.

Ðược như vậy thì:

- Chẳng những cha-mẹ một đời thôi, mà cha-mẹ nhiều đời, đều nhờ độ-thoát.

- Chẳng những cha-mẹ một người thôi, mà cha-mẹ nhiều người, cũng được siêu-thăng".

Ðây gọi là:

- Vì nghĩ đến ơn cha-mẹ mà tu và phát-tâm "vô-thượng Bồ-đề" vậy.

d. Sao gọi là vì nghĩ đến "ơn chúng-sanh" ?

Nghĩ đến ơn chúng-sanh là như thế nầy:

- "Ta cùng chúng-sanh, từ vô-thỉ đến nay, kiếp-kiếp, đời-đời, đổi thay nhau mà làm quyến-thuộc, nên kia (là người), đây (là mình)đều có nghĩa với nhau.

Nay dù cho cách đời, thay hình, cải dạng, khác họ, đổi tên, hôn-mê không nhớ, biết. Nhưng cứ lấy LÝ mà suy ra, thì chẳng thể nào không đền-đáp được.

- Vật loại mang lông, đội sừng ngày nay, biết đâu ta là con của nó trong kiếp trước.

- Loài bướm, ong, trùng, dế hiện-tại, biết đâu đó là thân-sinh tiền-thế của mình.

Còn đến như:

- Tiếng rên siết trong thành ngạ-quỷ,

- Giọng kêu la dưới cõi Âm-ty.

Ta tuy mắt không thấy, tai chẳng nghe, song họ vẫn van-cầu, cứu-vớt.

Ngoài Phật-kinh ra, nơi đâu chỉ rõ việc nầy, không nhờ Phật nói, ắt chẳng hiểu rành nghĩa ấy.

Cho nên:

- Bồ-tát xem ong, kiến là cha-mẹ quá khứ,

- Nhìn thú-cầm là chư Phật tương-lai.

- Thương nẻo khổ lâu-dài, hằng lo cứu-vớt,

- Nhớ nghĩa xưa sâu nặng, thường tưởng báo-ân.

Ðây gọi là:

- Vì nghĩ đến "ơn chúng-sanh" mà Tu và phát-tâm "vô-thượng Bồ-đề" vậy.

Trên đây đã giải-thích xong ba chữ: "Vì tứ ân"rồi.

Kế tiếp dưới đây, xin được giải-thích đến hai chữ: "Tam-hữu".

2. SAO GỌI LÀ "TAM-HỮU" ?:

Tam là BA, còn HỮU là có.

- Ba đây là ba cõi: Dục-giới, Sắc giới, Vô sắc-giới (Tức là 3 cõi trời).

- Còn CÓ (HỮU) đây, là có sanh, có tử, có luân-hồi(trong 6 nẻo Trời, Thần, Người, Ðịa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh), có khứ có lai.

Bởi vì chư Thiên trong 3 cõi Trời nầy (Dục-giới, Sắc-giới, Vô sắc-giới), Tuy là họ được hưởng thiên-phước (phước trời)thắng-diệu hơn cõi nhơn-gian, thọ-mạng lâu dài hơn người nhơn thế, nhưng một ngày kia, khi phước-báo và tuổi thọ hết rồi, tất-nhiên phải theo nghiệp-nhơn tiền-kiếp (còn sót lại) mà đọa vào trong 5 nẻo.

Như chư Thiên nơi các cõi Trời Dục-giới, khi thiên-phước và thọ-số mãn, thời có các "suy tướng"hiện ra, đại-để như:

a. Cõi Trời Trì-Mạn (nằm ở trên núi Tu-di, cách mặt biển Hương-thủy 20.000 do-tuần). Chư Thiên ở cõi nầy, khi thiên phước và thọ-số mãn rồi, thời có 2 tướng suy hiện ra như sau:

1. Cây trong vườn nhà lá khô, cành rũ, bông hoa mất mùi thơm, trái vàng rơi rớt.

2. Tràng hoa trời trang-nghiêm trên thân bỗng-nhiên héo úa. Gió mát hằng ngày biến thành gió nóng, độc.

Muốn rời bỏ cung-điện mà đi.

b. Cõi trời Tứ-vương (nằm ở giữa chừng núi Tu-di, cách mặt biển Hương-thủy 42.000 do-tuần).

Chư thiên ở cõi nầy khi thiên-phước và thọ-số mãn rồi, thời:

Có 3 tướng suy hiện ra như sau:

1. Ánh hào-quang nơi thân tắt mất.

2. Trang hoa trang-nghiêm nơi thân héo và không còn mùi thơm.

3. Chẳng còn thích nghe các thiên-nữ hòa-tấu thiên-nhạc và cũng không còn thích dạo chơi nơi các vườn hoa nữa.

- Y-phục trên thân dơ-bẩn,

- Tràng hoa trên đầu héo-úa.

- Hai nách chảy ra mồ-hôi,

- Hai nách khô và rát.

- Nhìn lại các món vật-dụng hằng ngày mà mình ưa thích giờ đây thấy nó như ẩn-hiện lờ-mờ.

- Tâm thần trở nên mê-muội.

- Ngột-ngạt, khó thở như cá lên khỏi nước lại bị gặp thêm trời nắng nóng.

- Trong mình phát nhiệt, lăn-lộn trên mặt đất.

c. Cõi Trời Ðao-lợi(tam thập tam-thiên)nằm ở trên chót núi Tu-di cách mặt biển Hương-Thủy 84.000 do-tuần.

Chư Thiên ở cõi nầy khi Thiên-phước và thọ-số mãn rồi, thời:

Có 5 tướng suy hiện ra như sau:

1. Nước tắm trong mát nơi ao, hồ trước kia nay bỗng biến thành ra mỡ, nhớt.

2. Nơi hai nách bỗng-nhiên chảy ra mồ-hôi.

- Tràng hoa trên đầu héo-úa, y-phục trời (thiên y) đang mặc trên thân, thình-lình dơ-bẩn.

- Không còn thích những món đồ mà mình ưa dùng khi trước.

3. Thân-thể bị nhiệt (nóng)thiêu-đốt, cả mình khô-héo.

4. Ðôi mắt đỏ ngầu như xích liên-hoa.

5. Các món đồ trang-nghiêm trên thân biến mất.

Khi các "tướng suy" nầy hiện ra, thì vị Thiên nhơn ấy chỉ còn có thọ thêm từ 1 đến 7 ngày sau thời mạng chung. Thần-thức sẽ tùy theo nghiệp tiền-kiếp (còn sót lại)mà đọa và trong 5 nẻo: Thần, người, địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh...

Vì thế cho nên trong kinh nói rằng:

... "Ðến khi thắng nghiệp hết rồi, thì tóc tiên hoa héo, áo ngọc bụi vương, điện vàng tắt ánh quang-minh, thân nhơ-nhớp còn chi vẻ đẹp" ....

là như vậy.

Từ trời Dạ-ma, Ðâu-suất, Hóa-lạc, Tha-hóa tự-tại trở lên, các chư Thiên khi Thiên-phước và thọ-số mãn rồi, cũng có 5 tướng suy hiện ra giống như ở nơi cõi Trời Ðao-lợi vậy ...

Hỏi:

- Thọ số của chư Thiên dài lâu ra sao ?

Ðáp:

- Tùy theo các cõi Trời cao hay thấp mà thọ số dài ngắn khác nhau.

Chẳng hạn như:

a. TRỜI DỤC-GIỚI:(Từ thấp lên cao).

Chư Thiên có thân tướng thọ số (sống lâu)như sau:

- Trời Trì-mạn, Thân cao 1/4 dặm, sống lâu 250 năm, một ngày đêm trên đó bằng 25 năm ở thế-gian. (25 x 365 x 250 = 2,281,250 năm thế-gian).

- Trời Tứ-vương, Thân cao 1/2 dặm, sống lâu 500 năm, một ngày đêm trên đó băng 50 năm ở thế-gian. (9,125,000 năm thế-gian).

- Trời Ðao-lợi, thân cao hơn 1/2 dặm, sống lâu 1000 năm, một ngày đêm trên đó bằng 100 năm ở thế-gian. (=36,500,000 năm thế-gian)

- Trời Dạ-ma, thân cao 1 dặm, sống lâu 2000 năm, một ngày đêm trên đó bằng 200 năm ở thế-gian (146,000,000 năm thế-gian).

- Trời Ðâu-suất, thân cao 1 dặm 1/2, sống lâu 4000 năm, một ngày đêm trên đó bằng 400 năm ở thế-gian, (= 584,000,000 năm thế-gian)

- Trời Hóa-lạc, thân cao hơn 1 dặm 1/2, sống lâu 8000 năm, một ngày đêm trên đó bằng 800 năm ở thế-gian, (2 tỷ 336 triệu năm thế-gian).

- Trời Tha-hóa tự-tại, thân cao 2 dặm, sống lâu 16000 năm, một ngày đêm trên đó bằng 1600 năm ở thế-gian (9 tỷ 344 triệu năm thế-gian).

vv ...

Trên đây là chỉ nói về thân lượng và thọ số của chư Thiên trên 6 cõi trời Dục-giới thôi ...

Ngoài ra:

a. Ở các cõi Trời Sắc-giới chư Thiên có thân lượng (thấp nhất)từ 1/2 do-tuần (cao 20 dặm) đến (cao nhất)là 16000 do tuần (640,000 dặm).

Sống lâu (ít nhất)từ 1/2 trung kiếp cho đến cao nhất là 16,000 trung kiếp (1).

b. Trời Vô-Sắc giới chư Thiên không có thân-tướng, chỉ còn thần-thức mà thôi, sống lâu (ít nhất)từ 20,000 đại kiếp cho đến (cao nhất) 80,000 đại kiếp (2).

Phụ-giảng:

Như trên vừa nói:

- Mặc dù sống lâu như vậy, nhưng rốt lại rồi cũng phải chếtvà đọa và trong vòng luân-hồi (tức là còn hữu sanh, hữu tử, hữu luân-hồi).

- Ðắc được quả-vị A la-Hán trở lên mới dứt sanh-tử và ra khỏi 3 cõi được.

- Hoặc là chỉ có về nơi cõi Cực-lạc của Phật A-DI-ÐÀ thì mới thoát sanh-tử và khỏi ra 3 cõi, sáu đường, mà thôi.

Cho nên đây gọi là:

- Vì chư Thiên trong 3 cõi Dục, Sắc, Vô-sắcgiới như thế mà:

- TU và phát-tâm "Vô-thượng Bồ-đề" để thành Phật độ-thoát cho HỌ vậy.

3. SAO GỌI LÀ PHÁP-GIỚI CHÚNG-SANH ?

- Pháp-giới chúng-sanh đây là 12 loại chúng-sanh (xem lại phần giải-thích trước)ở trong khắp các cõi nước của 10 phương hư-không pháp-giới.

Và người tu-hành chúng ta cũng phải vì tất-cả các loài chúng-sanh đó mà:

- TU và phát tâm "Vô-thượng Bồ-đề" để thành PHẬT độ-thoát cho họ.

Xem như đây thì biết tấm lòng ÐẠI-TỪ, ÐẠI-BI, CỨU KHỔ, CỨU NẠN, ÐỘ KHẮP CHÚNG-SANH của chư PHẬT bao-la đến là ngần nào! Chỉ có thể dùng chữ Bất-khả-thuyết, bất khả thuyết (không nói được, không nói được)để diễn-tả - cho cái đại tâm ấy - mà thôi.

TÓM LẠI:

Câu:

"Ngã kim phổ-vị Tứ-ân, Tam-hữu cập pháp-giới chúng-sanh, cầu ư chư PHẬT, nhứt thừa vô-thượng Bồ-đề đạo cố".

Là câu nguyện PHÁT-TÂM VÔ-THƯỢNG BỒ-ÐỀ, CẦU THÀNH PHẬT-QUẢ để quảng-độ chúng-sanh. Sự phát-tâm nầy nhứt định là KHÔNG THỂ THIẾU được trong suốt cuộc đời tu-hành của một người chơn Phật-tử.

Bởi vì:

- Chỉ cần một lần (trong đời)mà mình có đối trước PHẬT phát cái tâm VÔ-THƯỢNG BỒ-ÐỀ nầy thôi, cũng đủ để bảo-đảm khỏi bị đọa và trong địa-ngục.

Bởi công-đức phát-tâm "Vô-thượng Bồ-đề" là tối-thắng, không còn có công-đức nào hơn được nữa cả.

Người mà đã phát-tâm vô-thượng Bồ-đề nầy rồi thì thường được CHƯ PHẬT HỘ-NIỆM không bỏ rời.

Như khi xưa, lúc PHẬT còn tại-thế, vua A Xà-Thế giết cha là Tần-bà Sa-la Vương để chiếm ngôi, giam tù thân-mẫu, phạm vào trọng tội ngũ-nghịch, chỉ còn hơn 10 ngày sau là bị chết và sẽ đọa vào trong đại địa-ngục A-Tỳ.

Ấy vậy mà vào phút chót vua lại được PHẬT thuyết-pháp cứu cho, chẳng những thoát khỏi nạn A-Tỳ địa-ngục không thôi, mà còn được trường-thọ và làm một vị vua hộ-pháp có danh-tiếng trong đạo PHẬT nữa - (Các kinh đều có nhắc đến vua A xà Thế nầy về sự-nghiệp hộ-pháp và tu-hành của người sau khi được PHẬT cứu-độ).

Sở-dĩ như thế là vì vua A xà-Thế trước kia có ở nơi Phật quá-khứ là Tỳ-Bà-Thi Như-lai phát tâm "Vô-thượng Bồ-đề"một lần.

Như lời kinh sau đây:

"Bây giờ PHẬT khen vua A xà-Thế rằng:

- Lành thay, lành thay!

Nếu có người phát được tâm VÔ-THƯỢNG BỒ-ÐỀ, phải biết là người nầy đã trang-nghiêm chư PHẬT và đại-chúng.

Nầy Ðại-vương, thuở xưa nhà vua đã từng ở trước Phật TỲ-BÀ THI phát-tâm Vô-thượng Bồ-đề, nên từ đó đến ngày nay, chưa từng bị đọa địa-ngục.

Nên biết phát-tâm Bồ-đề có Vô-lượng quả-báo lành như thế!

Nầy Ðại-vương, từ đây về sau nhà vua phải thường siêng-năng tu tâm Vô-thượng Bồ-đề, vì tu-tâm Bồ-đề sẽ tiêu-diệt được vô-lượng tội-ác."

Còn,

Ðứng trên phương-diện của pháp môn TỊNH-ÐỘ thì người niệm PHẬT chúng-ta phải Phát-tâm vô-thượng Bồ-đề nầy ra sao và bằng cách nào ?

Như ở câu phát-nguyện trên, thì phần chót (của câu nguyện)có dạy như sau:

... "Bồ-đề đạo cố -CHUYÊN-TÂM TRÌ-NIỆM, A-DI-ÐÀ PHẬT, VẠN-ÐỨC HỒNG-DANH, CẦU SANH CỰC LẠC, DUY-NGUYỆN TỪ-PHỤ, A-DI-ÐÀ PHẬT, TỪ-BI GIA-HỘ, AI-LÂN NHIẾP THỌ".

Như vậy thì chư Tịnh-độ Tổ-sư đã có dạy rõ-ràng rằng:

- "Người Phật-tử tu Tịnh-độ, phải phát-tâm VÔ-THƯỢNG BỒ-ÐỀ bằng cách:

CHUYÊN TÂM TRÌ-NIỆM SÁU CHỮ HỒNG-DANH "NAM-MÔ A-DI-ÐÀ PHẬT" (thiệt tinh-thuần, sao cho kết thành được một khối nhứt tâm) ÐỂ CẦU SANH VỀ CÕI CỰC-LẠC".

Tại sao lại phải NIỆM và CẦU như vậy:

- Vì khi được vãng-sanh về đây rồi thì đã được dự vào bậc vô-sanh và bất thối-chuyển nơi đường tu-hành, mãi-mãi cho đến ngày được thành-tựu quả-vị VÔ-THƯỢNG BỒ-ÐỀ, rồi theo gương chư PHẬT quá-khứ, hiện tại ... mà:

ÐỘ TẬN CHÚNG-SANH

cho tất-cả được:

ÐỒNG THÀNH PHẬT ÐẠO.

(Cũng như mình vậy).

Lành vậy thay,

Lành vậy thay.

Chúng con xin kính-cẩn cúi đầu, duy-nguyện:

- Ðức Từ-phụ A-DI-ÐÀ PHẬT, thương-xót, chứng-minh cho lời phát-nguyện Vô-thượng Bồ-đề của chúng con hôm nay và:

TỪ-BI GIA-HỘ, AI-LÂN NHIẾP-THỌ.

cho con cùng tất-cả chúng-sanh sớm được:

SANH VỀ CỰC-LẠC

DỰ VÀO NƠI

CHÍN PHẨM SEN VÀNG ...

Và vĩnh-viễn thoát vòng sanh-tử.

Trên đây đã giải-thích xong câu nguyện phát Bồ-đề tâm rồi ...

------------------------------------------------------------------------------------

1)- Một trung-kiếp có 20 tiểu-kiếp, tức là 336 triệu năm.

(2)- Một đại kiếp có 4 trung kiếp, tức là 1 tỷ 344 triệu năm.

Xin chú-ý:- Ngày trên cõi Sắc-giới dài hơn ngày của cõi trời Dục-giới gấp trăm, ngàn lần.

- Ngày trên cõi Vô-Sắc giới dài hơn ngày của trời Sắc-giới cũng gấp trăm, ngàn lần.

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 5395)
Hòa thượng pháp danh Trí Độ, hiệu Hồng Chân, thế danh Lê Kim Ba, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1894 tại thôn Phổ Trạch, xã Kỳ Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Sinh ra trong một gia đình Nho học, lúc thiếu thời Ngài học chữ Nho và năm 18 tuổi học trường Sư phạm. Vì thế mà sở học rất uyên thâm, thêm lòng mến mộ đạo Phật, Ngài đi sâu vào nghiên cứu giáo lý và trở thành một vị học Phật lỗi lạc.
09/04/2013(Xem: 5847)
Hòa Thượng pháp danh Thích Tâm Thi, đạo hiệu Tuệ Tạng, thế danh Trần Thanh Thuyên, sinh năm Canh Dần (1889) tại làng Quần Phương Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Thân phụ Ngài là ông Trần Tín tự Phúc Châu, thân mẫu là bà Vũ Thị Tú hiệu Diệu Hòa.
09/04/2013(Xem: 6833)
Hòa thượng Hộ Tông (1893-1981), Maha Thera Vansarakkhita, có thế danh là Lê Văn Giảng, sinhngày 15 tháng 10 năm 1893, tại làng Tân An, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Ngài xuất thân trongmột gia đình trung lưu trí thức, thân phụ là ông Lê Văn Như, thân mẫu là bà Đinh Thị Giêng.
09/04/2013(Xem: 5848)
Hòa Thượng họ Nguyễn, Húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, pháp hiệu Thích Trí Thủ. Ngày sinh ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Dậu, tức ngày 01-11-1909 trong một gia đình nho phong thanh bạch, tại làng Trung Kiên, tổng Bích Xa, phủ Triệu Phong (nay là xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong) tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là cụ Nguyễn Hưng Nghĩa, thân mẫu là cụ Lê Thị Chiếu. Hai cụ là người rất kính tín Tam Bảo. Vì vậy, dù là con trai độc nhất trong gia đình, lúc 14 tuổi Ngài đã được song thân cho vào học kinh kệ ở chùa Hải Đức Huế.
09/04/2013(Xem: 10229)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái.
09/04/2013(Xem: 8258)
Hòa thượng húy Trần Thiện Hoa, pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 7-8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quy (sau đổi tên là An Phú Tân), quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Trà Vinh). Hòa thượng là con út (thứ chín) trong gia đình. Thân phụ Hòa thượng huý Trần Văn Thê, pháp danh Thiện Huệ, thân mẫu húy Nguyễn Thị Sáu, pháp danh Diệu Tịnh. Toàn thể gia đình Hòa thượng đều quy y với tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Đốc. Pháp danh Thiện Hoa do Tổ đặt cho Hòa thượng.
09/04/2013(Xem: 13379)
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang thế danh là Lê Đình Nhàn, sinh năm Canh Thân, ngày 19-9-1920 (tức ngày mồng 8 tháng 8 năm Canh Thân), quê thôn Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Lê Vỵ pháp danh Như Hương, thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Tư pháp danh Như Tâm cùng ở làng Háo Đức.
09/04/2013(Xem: 5585)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đơøi Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai. Nguyên Hòa Thượng sanh năm 1914 (Giáp dần), tại thôn Tịnh Bình, xã Nhơn Hạnh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh, trong gia đình Lê gia thế phiệt, vốn dòng môn phong Nho giáo, đời đời thâm tín Tam Bảo, tôn sùng Ðạo Phật. Thân phụ là cụ ông LÊ PHÚNG, pháp danh NHƯ KINH, thân mẫu cụ bà TỪ THỊ HỮU, pháp danh NHƯ BẰNG, đức mẫu là cụ bà NGUYỄN THỊ CƠ, pháp danh NHƯ DUYÊN.
09/04/2013(Xem: 13365)
HT Thích Giác Trí, húy Nguyên Quán, phương trượng chùa Long Hoa, quận Phù Cát - Bình Định, tuổi Mậu Thìn 1928, năm nay 80 tuổi. Năm 13 tuổi Ngài xuất gia với Đại sư Huyền Giác, là Trụ trì tổ đình Tịnh Lâm Phù Cát. HT Mật Hiển 1907-1992 chùa Trúc Lâm, Huế, thọ giới Tỳ kheo tại đây năm 1935, giới đàn do HT Huyền Giác thành lập, thỉnh Tổ quốc sư Phước Huệ làm Đàn Đầu Hòa Thượng.
09/04/2013(Xem: 6366)
Bác Phạm Đăng Siêu sinh ngày 4 tháng 7 năm Nhâm tý (1912) tại Phú Hòa, kinh đô Phú Xuân, thành phố Huế. Nguyên quán thôn Tân Niên Đông, huyện Tân Hòa, phủ Tân Định, tỉnh Gò Công. Song thân Bác là cụ ông Phạm Đăng Nghiệp và cụ bà Tôn Nữ Thị Uyên, thuộc gia đình quý tộc giàu có.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567