Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

18. Tôn giả A Nan (Đệ nhất đa văn)

26/02/201115:33(Xem: 3514)
18. Tôn giả A Nan (Đệ nhất đa văn)

THANH TỊNH TÂM
Lê Sỹ Minh Tùng

18. Tôn giả A Nan
(Đệ nhất đa văn)

Trong số các đại đệ tử của Phật thì A Nan là người có tướng mạo trang nghiêm và trí nhớ mạnh mẽ nhất. Ngay cả Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi còn phải khen ngợi Ngài như sau:

Tướng như trăng thu đầy

Mắt biếc tợ sen xanh

Phật pháp rộng như bể

Đều rót vào tâm A Nan.

Phụ thân của A Nan là Bạch Phạn Vương, còn Đề Bà Đạt Đa chính là anh ruột của Ngài. Khi Đức Phật trở về cung thành Ca Tỳ La Vệ để thăm lại phụ vương và gia đình, thì Bạch Phạn Vương lo sợ A Nan bị ảnh hưởng về tư tưởng xuất thế của Phật cho nên gặp Phật không lâu thì Bạch Phạn Vương bèn đưa A Nan sang nước Tỳ Xá Ly để cho Ngài không có cơ hội thường tiếp xúc với Phật. Khi Đức Phật đi hoằng pháp tại Tỳ Xá Ly thì nhà vua lại đưa A Nan trở về thành Ca Tỳ La Vệ.

Buổi gặp gở đầu tiên khi vừa mới thấy A Nan thì Đức Phật đã thầm nghĩ:” Nếu như A Nan xuất gia thì tương lai có thể là một nhân tài phi phàm xuất chúng làm cho Phật pháp được lưu truyền mãi mãi ở hậu thế.” Một nhân vật vĩ đại thì điều quan trọng là phải chọn người có thể nối tiếp sự nghiệp của mình. Quả thật là nhân duyên bất khả tư nghị, bởi vì trong số rất đông các vương tôn công tử thì Đức Phật lại đặt niềm hy vọng nhiều nhất ở A Nan.

Lúc biết A Nan đã trở về Ca Tỳ La Vệ thì Phật bèn lập tức quay về, đến ngay cung điện của Bạch Phạn Vương và ngự tại phòng kế bên phòng của A Nan. A Nan mở cửa ngó qua, thấy Đức Phật bèn cung kính đảnh lễ và lấy quạt quạt cho Đức Phật. Thái độ của A Nan đã cho thấy rằng tâm hồn thơ bé của Ngài đã sớm khởi lòng tin tưởng cung kính đối với Đức Phật. Khi nhân duyên đã đến, A Nan cùng với sáu vương tử khác là A Na Luật, Đề Bà Đạt Đa, Kiếp Tân Na, Bà Sa, Bạt Đề và Nan Đề đồng lén bỏ nhà tìm đến với Phật. Trong số bảy vương tử nầy thì A Nan là người nhỏ tuổi nhất. Khi đến mé rừng Ni Câu Đà thuộc làng Di Na thì họ cởi bỏ y phục, cạo râu tóc, khoác lên mình những chiếc cà sa và đến yết kiến Phật. Đức Phật chưa cho họ nhập tăng đoàn ngay mà bảo họ đến ở trong một tịnh thất để tịnh tọa một tuần lễ cho quên hết thân thế cao sang của mình, rồi sau đó mới chánh thức cho xuất gia và ra mắt đại chúng.

Giúp Thành Lập Ni Đoàn
Vì xuất gia từ lúc nhỏ nên A Nan lớn lên trong tăng đoàn. Với thiên tánh ôn hòa từ bi, dung mạo truyền cảm cho nên tôn giả là một nhân vật được phái nữ cả bên trong và bên ngoài tăng đoàn tôn kính.

Khi nói về duyên khởi để cho phụ nữ được Đức Phật cho phép xuất gia thì hoàn toàn là do công lao của tôn giả.

Số là bà dưỡng mẫu Ma ha Ba xa ba của Phật nhận thấy rằng Đức Phật sau khi thành đạo trong vòng năm năm mà tất cả các vương tử như Bạt Đề, A Nan… đều quy y theo Phật, ngay cả vương tôn La Hầu La cũng đã là Sa Di. Rồi vua Tịnh Phạn cũng băng hà do đó trong hoàng cung bây giờ thật là yên lặng và cô đơn. Do thiện căn bắt đầu nẩy mầm, bà bèn đến xin Phật cho phép được xuất gia để ở trong tăng đoàn mà tu học chánh pháp.

Bà yêu cầu lần thứ nhất, Phật liền từ chối. Không nản chí bà lại tiếp tục yêu cầu đôi ba phen, nhưng lần nào cũng không được Phật chấp nhận. Về sau Đức Phật sợ bị bà dưỡng mẫu kèo nài phiền phức bèn dẫn tất cả đệ tử sang thuyết pháp tại tịnh xá Na Ma Đề Ni thuộc nước Tỳ Xá Ly.

Dưỡng mẫu nhất định không nản lòng, bà bèn tập họp những mệnh phụ phu nhân của dòng họ Thích mà trong đó có cả công chúa Da Du Đà La. Họ đồng nguyện cắt bỏ tóc, đi chân đất và thay thế áo quần cao sang lòe loẹt bằng những bộ cà sa đơn giản. Họ bắt đầu rời thành Ca Tỳ La Vệ để đến tịnh xá Na Ma Đề Ni. Các vị phu nhân tiểu thư nầy từ trước tới giờ quen ở thâm cung, lên xe xuống lầu và không hề động đến đến móng tay mà bây giờ thì đầu trần, chân đất lội bộ suốt mười mấy ngày trường với thiện tâm được Phật thu nhập vào tăng đoàn và sau cùng họ cũng đến được Tỳ Xá Ly.

Khi đến Tỳ Xá Ly thì trời đã về chiều. Vì không quen cực nhọc đường xa nên ai nấy hình dung tiều tụy, thở chẳng ra hơi và cả đoàn cứ loanh quanh lẩn quẩn trước tịnh xá mà không dám vô. Thời may A Nan trong tịnh xá đi ra và Ngài không khỏi bàng hoàng kinh ngạc khi thấy Dưỡng Mẫu, công chúa Da Du Đà La và bao nhiêu người nữ dòng họ Thích khác đều mặc cà sa mà bụi bặm đen đúa và nước mắt đầm đìa. Còn chân của họ thì sưng lên và chảy máu trông rất thảm thiết. A Nan vốn giàu tình cảm, cố gạt nước mắt mà hỏi:

- Các bà làm gì ở đây?

Dưỡng mẫu đáp:

- Chúng tôi vì muốn cầu đạo, cắt ái từ thân, bỏ nhà đến đây cầu xin được thế độ. Nếu như lần nầy Phật không cho phép thì chúng tôi nguyện liều chết tại đây chớ không về.

A Nan nghe Dưỡng Mẫu vừa nói vừa rơi nước mắt, bèn an ủi:

- Các vị hãy yên tâm! Tôi chỉ thấy tình cảnh các vị như thế này trong lòng hết sức áy náy. Các vị hãy chờ ở đây một lát, tôi sẽ vào xin Đức Thế Tôn dùm cho.

A Nan vội trở vào tịnh xá, đem hết nguyện vọng của Dưỡng Mẫu thưa lên Đức Phật để khẩn cầu Phật thương xót cho họ được xuất gia.

Nghe xong, Phật từ chối và dạy rằng:

- Ta cũng thương cho bọn họ đấy, nhưng vì sự truyền thừa chánh pháp nên không thể chấp nhận được.Ông ra bảo họ rằng ta không bằng lòng.

A Nan không chịu đi ra mà cố nài nỉ với Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu là ai khác thì con có thể từ chối được, nhưng đàng nầy là Dưỡng Mẫu, nếu nói thẳng chắc là sẽ có chuyện không hay. Họ đã nói, chẳng thà chết chứ không chịu về.

Phật dạy:

- Này A Nan! Chấp nhận cho người nữ xuất gia trong tăng đoàn thật chẳng tiện chút nào.

A Nan cố xin dùm cho phái nữ nên ra sức vận động:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ Phật pháp lại phân biệt nam và nữ hay sao?

Phật dạy tiếp:

- Này A Nan! Pháp của ta thì dù ở cõi người, cõi trời đều là một. Ta không lựa riêng nam hay nữ vì tất cả đều là chúng sanh đáng thương nên ta đều đối xử với mọi người bình đẳng. Người nữ có thể tin theo pháp của ta như bên nam giới. Họ tu hành như nhau và chứng quả như nhau, chỉ không nhất định là họ phải xuất gia. Đây là vấn đề pháp chế, không phải vấn đề nam nữ bình đẳng. Người nữ xuất gia thì cũng như đám ruộng tốt sanh sản nhiều cỏ dại, không gặt hái được bao nhiêu.

Đức Thế Tôn nhìn xa thấy rộng nên lời nói của Ngài hàm chứa ý nghĩa sâu xa. Nếu dựa theo quan niệm tình người thì việc nữ giới được xuất gia là thích đáng, nhưng nếu đứng về phương diện lý pháp thì việc nam nữ cùng tu học chung một tịnh xá là một việc khó giải quyết. Bởi vì trí tuệ và tình cảm là hai đường đối nghịch nhau và đây là lý do tại sao Phật không cho phép người nữ xuất gia. Người nữ thì rất nặng tình cảm vì thế họ có thể vì tình mà bỏ đạo và đây là điều mà Phật không thể chấp thuận. Hoặc giả là nữ nhân cao tâm ngã mạn, ham danh nặng hơn nam giới nên Phật mới làm khó để dạy cho họ một bài học chăng?

Thấy Phật cứng rắn, A Nan bản tính vốn ôn hòa chưa từng cãi Đức Phật một câu nên chỉ còn rơi lệ sụt sùi đảnh lễ mà bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ Ngài nhẫn tâm để họ chết mà không đưa tay từ bi cứu độ?

Phật thấy rằng trên đời nầy, lý pháp và tình cảm cũng có khi không thể vẹn toàn. Ngài cũng biết rõ mối quan hệ nhân duyên, không thể có một pháp nào trên đời nầy mà thanh tịnh, thường trú bất biến mãi mãi được nên Ngài bất đắc dĩ bảo A Nan:

- A Nan! Ta chẳng còn cách nào hơn. Thôi, hãy ra kêu họ vào đây.

A Nan vui mừng vội vàng chạy ra báo tin vui, Dưỡng Mẫu và đoàn người nghe tin đều mừng rỡ đến rơi nước mắt.

Họ theo nhau vào diện kiến Đức Phật. Ngài thản nhiên và ôn hòa cho phép họ được xuất gia làm tỳ kheo ni, nhưng bắt họ phải giữ đúng tám giới. Đây chính là những ni cô đầu tiên trong tăng đoàn của Đức Phật.

Với sự trợ giúp của A Nan mà sau cùng một ni đoàn được thành lập, bà Dưỡng Mẫu rất cảm kích đối với ơn của A Nan mà thành khẩn nói lên sự vui mừng của mình:

- A Nan! Chúng tôi vâng giữ tám giới luật (bát kinh pháp) cũng như người đẹp mà được mặc y phục mỹ lệ vậy.

Do nhân duyên ấy mà phái nữ đối với tôn giả rất mực kính ngưỡng dù ở trong hay ngoài tăng đoàn.

Nàng Ma Đăng Già
Vẻ đẹp và tuổi trẻ của A Nan đã gây ra nhiều chuyện phiền phức rối ren và câu chuyện về nàng Ma Đăng Già đã là đề tài mà Đức Phật thuyết bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm để giúp A Nan và tứ chúng tìm lại cái chơn tâm của mình.

Một hôm sau mùa an cư kiết hạ, A Nan bưng bình bát vào thành Xá Vệ để khất thực. Trên đường đi ngang qua một giếng nước, thấy có một cô gái dòng Thủ Đà La đang lui cui xách nước thì Ngài cảm thấy khát bèn đến bên giếng và nói:

- Cô nương! Xin bố thí cho tôi miếng nước.

Cô gái ngẩng đầu lên thì thấy một vị tỳ kheo trẻ tuổi trang nghiêm và nhận đó là tôn giả A Nan. Cô vội nhìn xuống phục sức của mình và thẹn thùng nói nhỏ:

- Thưa tôn giả! Tôi không tiếc chi với Ngài, nhưng tôi thuộc dòng hạ tiện thì làm sao có thể cúng dường cho Ngài?

A Nan an ủi:

- Này cô nương! Tôi là tỳ kheo nên không có tâm phân biệt cao thấp sang hèn đâu.

Cô gái bèn vui vẻ đem gàu nước trong trẻo đưa cho A Nan. Tôn giả uống xong, thốt lời cám ơn và lặng lẽ tiếp tục đi.

Mối tình đầu chớm nở trong lòng cô thiếu nữ làm cô không ngăn nỗi tia nước mắt lưu luyến đưa theo hình ảnh A Nan. Dáng dấp quý phái cao sang của vương tôn công tử ngày nào vẫn phảng phất đâu đây và với lời lẽ ôn hòa ấy như một nét mực đậm in trên tâm hồn trong trắng của cô vĩnh viễn không thể xóa nhòa. Tệ hại hơn nữa là cô ước mơ nếu được kết hôn với A Nan thì hạnh phúc biết bao nhiêu.

Cô Ma Đăng Già về nhà mà bơ phờ như người mất hồn. Cô không còn thiết tha gì đến việc ăn uống, làm việc cũng như mọi thứ trên đời nầy. Bà mẹ thấy vậy thì cố gạn hỏi nguyên do. Ban đầu thì cô không chịu nói, nhưng rồi sau cùng cô thú thật đã yêu và muốn lấy A Nan làm chồng. Bà mẹ rất đỗi ngạc nhiên vì chẳng những A Nan đã đi tu làm tỳ kheo mà ông ta lại thuộc dòng hoàng tộc thì làm sao mà cưới cho được. Nhưng vì quá thương con, bà đi thỉnh một đạo bùa chú của ngoại đạo và đợi lúc A Nan đi khất thực ngang nhà sẽ dùng tà thuật để mê hoặc Ngài.

Khi A Nan đi ngang qua nhà thì cô đứng trước cửa cười chúm chím và đưa tay vẫy. A Nan mê mẫn bước vào trong nhà. Ma chú có linh nghiệm hay không thì điều đó không thể biết được mà chỉ biết là A Nan cũng còn nhớ cô gái bên giếng nước. Cô gái vừa mừng vừa thẹn lính quýnh cả lên thì ngay lúc ấy A Nan sực nhớ ra mình là một tỳ kheo. A Nan liên tưởng đến Đức Phật và đồng thời Đức Phật dùng thần thông mà nói chú Lăng Nghiêm để gia hộ cho tôn giả trí tuệ được sáng suốt trở lại. Đây chính là Phật lực đã đưa A Nan trở về tịnh xá Kỳ Viên.

Ngày hôm sau, A Nan bình tĩnh đi vào thành để khất thực như mọi ngày, nhưng cô Ma Đăng Già thì áo quần lộng lẫy, người đeo tràng hoa, đứng bên đường như chờ đợi A Nan. Vừa thấy tôn giả, cô bèn lẽo đẽo theo sau một bên. Trước tình cảnh tấn thối lưỡng nan nầy, A Nan chỉ còn một cách là quay về tịnh xá mà bạch với Đức Thế Tôn mà thôi. Đức Phật bảo A Nan gọi cô ta đến và Ngài sẽ đích thân nói chuyện với cô ta. A Nan vừa ra tới cổng đã thấy cô ta còn đứng chờ ở đó, A Nan bèn nói:

- Tại sao cô cứ theo tôi mãi như vậy?

Ma Đăng Già đáp:

- Thầy thiệt là ngốc mới đi hỏi một câu lẩn thẩn đến thế.

A Nan nói tiếp:

- Đức Thế Tôn muốn gặp cô, mời cô theo tôi vào tịnh xá.

Nghe nói đến Đức Thế Tôn thì cô gái có vẻ lo sợ nhưng vì muốn đoạt cho được A Nan nên cô lấy hết can đảm đến gặp Phật. Phật thấy cô bèn nói:

- A Nan là người tu, nếu muốn làm vợ A Nan thì điều kiện cần yếu trước tiên là phải xuất gia tu đạo một năm. Cô có chịu không?

Ma đăng Già đáp mà không cần suy nghĩ:

- Phật Đà! Con bằng lòng.

Cô gái không ngờ Đức Phật từ bi quá đỗi nên đưa điều kiện hết sức dễ dàng để tác thành cho cô vì thế cô chấp nhận một cách rất mau lẹ.

Thấy cô gái hoan hỷ, Phật dạy tiếp:

- Theo phép xuất gia của ta là phải có cha mẹ bằng lòng. Cô có thể mời cha mẹ đến chứng minh được không?

Đức Phật thật ra không muốn làm khó dễ cô bởi vì điều kiện của Ngài cũng dễ thôi. Cô liền về nhà và dắt mẹ đến. Chính bà mẹ cô cũng vui mừng trước Đức Phật để cô gái xuất gia tu hành rồi sau sẽ kết hôn với A Nan.

Nàng Ma Đăng Già vì muốn làm vợ A Nan nên rất cao hứng mà cạo tóc, mặc áo cà sa và trở thành tỳ kheo ni. Cô đem hết nhiệt tâm nghe Phật thuyết pháp và cũng rất tinh tấn y theo lời chỉ dạy của Phật mà tu tập. Ở trong Ni đoàn, cô hòa hợp với các sư tỷ, sư muội và các sinh hoạt theo Phật pháp.

Biển ái, tình si của cô dần dần lắng dịu. Xuất gia chưa được nửa năm mà cô đã thức tỉnh rằng thái độ của mình trước đây thật là hổ thẹn.

Đức Phật thường thuyết giảng rằng ngũ dục là pháp bất tịnh và chính là nguồn gốc của mọi khổ đau. Loài thiêu thân ngu si tự ném mình vào lửa để bị thiêu rụi. Con tằm vô tri làm kén để tự trói mình. Nếu chúng sinh trừ bỏ được ngũ dục thì nội tâm mới thanh tịnh và nhờ đó cuộc sống mới an ổn được.

Giờ đây, cô tự biết mình mê đắm A Nan là một lý tưởng bất thiện và bất định nên cô hối hận vô cùng. Một hôm, cô quỳ dưới chân Phật, khóc sám hối:

- Bạch Thế Tôn! Con đã tỉnh mộng. Con không dè lúc trước con ngu si đến mức như vậy. Hôm nay con chứng được thánh quả, được xem như qua mặt A Nan nên con rất cảm kích ân của Thế Tôn. Ngài vì hóa độ bọn chúng sanh ngu muội như con đã dùng hết phương tiện và nhọc lòng dạy dỗ. Từ nay về sau, con nguyện suốt đời làm tỳ kheo ni, theo chân Đức Thế Tôn làm một sứ giả cho chân lý.

Sự giáo hóa khẩn thiết của Đức Phật, cuối cùng đã thấm nhập vào tâm hồn của thiếu nữ. Cô đã giác ngộ mà thấy đời rất thanh lương và sau đó trở thành một tỳ kheo ni mẫu mực.

Nàng Ma Đăng Già đã nổi danh và cũng là một chứng tích trong lịch sử của Phật giáo. Đức Phật vì lòng từ bi đã giúp cho một cô gái dòng hạ tiện được xuất gia. Chính điều nầy đã làm cho nhiều người phê bình, chống đối, nhưng đối với bậc đại thánh Phật Đà thì Ngài đã nêu lên chủ trương bình đẳng như trăm sông đều chảy về biển cũng như bốn chủng tộc mà xuất gia đều là Thích tử.

Nàng Ma Đăng Già vì yêu mến dung mạo của A Nan mà sau cùng đã chuyển họa thành phước và đây là một tấm gương sáng cho tất cả chúng sinh còn đắm chìm trong ngũ dục.

Đạo Pháp Và Tình Cảm

Vì có dáng mạo thanh cao đẹp đẽ và con người rất giàu tình cảm nên tôn giả A Nan chẳng những đã bị các cô gái thế tục theo đuổi mà cho đến các tỳ kheo ni cũng thầm thương trộm nhớ Ngài.

A Nan đối với ni giới lúc nào cũng giúp đỡ tận tình nên các tỳ kheo ni đối với tôn giả luôn luôn một mực cung kính. Đôi khi A Nan cùng Đại Ca Diếp trên đường đi hoằng pháp, ghé ngang tịnh xá của các tỳ kheo ni thì các cô đồng thỉnh A Nan khai thị trước rồi sau mới mời Đại Ca Diếp. Nếu nói về phương diện tôn ti trong tăng đoàn thì Đại Ca Diếp đã chứng quả A La Hán còn A Nan thì chưa, còn luận về tuổi tác thì A Nan còn rất trẻ đáng hàng con cháu của Đại Ca Diếp, nhưng đối với các vị tỳ kheo ni thì không để ý đến chuyện nầy.

Đứng về phương diện tâm lý thì cuộc sống của người xuất gia như một bãi chiến trường. Lý trí và tình cảm giao tranh với nhau trong tâm tư của họ. Nếu lý trí thắng thì họ tu đắc đạo còn đi theo tình cảm thì dĩ nhiên vẫn là phàm phu tục tử mà thôi. Nhưng không thể nào lý luận rằng mỗi vị xuất gia đều lạnh lùng như cây khô, như xác chết và không còn một chút ái tình đối với thế gian.

Cũng vì cái phong tư thanh nhã mà trong lúc ở tại tịnh xá Kỳ Viên có một tỳ kheo ni trẻ tuổi đã đem dạ mến thương A Nan nên cô ngày đêm ôm ấp hình bóng của Ngài. Tuy cô thầm thương trộm nhớ A Nan, nhưng vì giới cấm quá khắc khe nên cô không thể làm gì hơn là chỉ nhìn lén tôn giả mà thôi.

Một hôm, vị tỳ kheo ni nầy có bệnh nên cô nhờ người thưa lại với A Nan rằng:

- Thưa tôn giả! hiện giờ con đang bệnh nặng biết không còn hy vọng bao nhiêu, xin tôn giả từ bi đến thăm một lần.

Lời yêu cầu đáng thương như vậy làm cho tôn giả động tâm nên sáng hôm sau tôn giả đắp y mang bát đi khất thực và thuận tiện ghé thăm. Vị ni cô nầy bị bệnh nên y phục không được chỉnh tề, không ngồi dậy mà nằm trên giường nhìn A Nan trân trối bằng cặp mắt đa tình lẳng lơ. A Nan thấy thái độ lãng mạn của cô, không vừa ý, liền quay lưng bỏ đi mà không hỏi han gì cả. Vị ni cô nầy thấy hành vi bất mãn của tôn giả đối với mình nên sanh lòng hổ thẹn do đó cô vội vàng ngồi dậy, đắp y và trải tọa cụ để thỉnh A Nan trở lại. A Nan liền khai thị:

- Này cô! Không nên dùng vật bất tịnh nuôi thân, không nên dùng kiêu mạn nuôi tâm, không nên chứa chấp tư tưởng tham ái và ý niệm tham dục. Này cô, khi đau bệnh nên để thân tâm an trụ nơi cảnh giới vô sở cầu thì mới mau lành mạnh.

Cô tỳ kheo trẻ tuổi bây giờ hình như quên đi thân phận xuất gia của mình mà đưa mắt nhìn A Nan một cách tình tứ và nói:

- Chẳng phải tôi không biết đạo lý mà tôn giả vừa nói, nhưng đối với tôi, không được ăn ngon hay mặc đẹp thì tôi cũng chịu nổi, chỉ vì tình cảm của tôi với tôn giả là khó xử mà thôi. Tôi đã hết sức chế ngự mà không được. Người ta ai cũng muốn yên thân, yên tâm và dĩ nhiên là ai ai cũng có một điều mong ước chứ.

A Nan thuyết giảng tiếp:

- Này cô! Không nên nghĩ như vậy. Chúng ta đi xin thức ăn áo mặc là để giữ gìn cái thân mạng mà tu đạo. Có tu đạo mới có thể an tâm. Bỏ quên đạo lý chạy theo tìm cầu những dục lạc giả dối cho thân mình là một điều lầm lẫn. Người thợ thoa dầu vào bánh xe là để cho xe dễ chạy, còn người có bệnh ghẻ xức dầu trên mình không phải là để trang điểm mà cũng không phải là vì dục lạc mà chỉ có mục đích trị bịnh mà thôi. Nếu chúng ta muốn thân tâm thanh tịnh thì cần yếu là phải đoạn trừ ý niệm ái dục, lìa tâm ham vui và xa rời tâm hữu lậu để mong đạt được chân lý vĩnh hằng. Kẻ tu hành thì đừng để cho các pháp vô thường hư huyển làm mê hoặc mà hỏng đường tu thì phí cả đời mình.

Tỳ kheo ni nghe rồi quá xúc động vì nhận biết hành động sai lầm ngu muội có thể giết chết cuộc đời tu hành của mình vì thế cô ta liền dứt sạch tâm niệm ái dục và chứng được pháp nhân.

A Nan vì những chuyện của nữ nhân mà thường chuốc vào thân những điều phiền phức. Tôn giả bị người ganh ghét, phê bình và đố kỵ nhiều khi cũng làm cho Đức Thế Tôn quan tâm không ít.

Tôn giả thì hoàn toàn không giống như Ca Lưu Đà Di vì Ngài không đeo đuổi các cô mà ngược lại thì các cô cứ nhắm mắt chạy theo Ngài. Dù cho tôn giả đối với nữ giới có chân chính cách mấy mà trong Phật giáo bất cứ việc gì dính dáng đến phái nữ thì chẳng lấy làm vinh dự lắm vì nam nữ luyến ái nhau tuy chẳng phải là tội ác lớn nhưng vốn là hành vi bất tịnh.

Một hôm, Phật đang hoằng pháp tại nước Xá Vệ thì có nhóm Phật tử làm rất nhiều bánh in đem đến cúng dường. Phật dạy A Nan đem bánh phân chia cho các tỳ kheo. A Nan chia xong, còn dư bánh khá nhiều nên Phật lại bảo đem chia cho những người nghèo trong vùng.

A Nan vâng lời liền nhóm hợp hết những người bần khổ đến lãnh bánh. Có đến ngàn người kéo đến, nhưng A Nan tính số bánh với số người thì vừa đủ mỗi người một cái.

Khi A Nan đang chia bánh thì trong số lãnh phần có một thiếu nữ xinh đẹp thuộc nhóm ngoại đạo. Khi chia đến cô thì oái oăm thay phần bánh lại có hai cái dính chung gỡ không ra. A Nan không biết tính sao bèn đưa hết cho cô ấy. Đối với A Nan thì Ngài không có ý bất chánh hay hành động tà dâm, nhưng vì tính hiếu kỳ mà người đời xì xầm với nhau rằng:

- Thầy A Nan đẹp trai nên đem cho cô gái kia hai phần bánh in nồng nàn thì chắc hai đàng đã quen biết với nhau. Chắc họ có tình ý gì rồi chăng?

A Nan nghe mấy lời bàn tán thì trong lòng không vui. Nhưng thật ra miệng người thị phi độc ác cho dù kẻ tu hành có tâm nhẫn nhục cách mấy đi chăng nữa cũng khó mà giữ cho tâm mình được thanh tịnh.

Đức Phật thường dạy các đệ tử nên tránh mọi cơ hiềm của thiên hạ. Nhất là vấn đề nam nữ. Chẳng cần biết ông tu hành chín chắn ra sao, nếu để bị tai tiếng dính dáng tới nữ nhân thì chắc chắn là sẽ gặp trăm tai họa gởi. Phật lại dạy thêm: Thật ra đối với người chưa chứng thánh quả mà nói hoàn toàn không mê sắc đẹp là chuyện không thể có. Nhưng bậc tu hành đối với ái dục nên phòng thủ chắc chắn và lúc nào cũng đề cao cảnh giác.

A Nan thường nghĩ đến việc khổ phiền cũng vì chuyện đàn bà con gái nên một hôm tôn giả ngồi tư duy nơi chỗ vắng và nghĩ thầm:

- Người đời đều do ái dục mà sanh, sinh hoạt hàng ngày bị nhận chìm trong ái dục mà không biết chán. Họ vừa thích tìm cầu ái dục cho bản thân mà lại thích đàm tiếu chuyện ái dục của người khác. Ái dục đem lại nhiều khổ não và tranh chấp cho thiên hạ. Đức Thế Tôn thường quở trách ái dục là quá chánh đáng.

A Nan thấm thía cho tiếng thị phi, nên khi chiều xuống Ngài bèn đến trước Phật, đem hết những cảm tưởng của mình mà bạch với Phật. Phật nghe xong bèn kể cho A Nan nghe về một đoạn nhân duyên của Ngài trong thời quá khứ:

- A Nan! Ông nói đúng. Người đời bị chìm đắm trong biển dục không biết nhàm chán. Thời quá khứ, có một ông vua tên là Đảnh Sanh, dùng chánh pháp ôn hòa trị dân mà không cần dao gậy mà người hung ác đều phục tùng. Nhưng nhà vua là một người tham dục đắm sắc, khi cai trị thì đi đến đâu cũng nghe nhân dân ca tụng đức độ, nhưng về phần dục lạc lại quá đam mê. Bao nhiêu cung phi mỹ nữ trong nước còn chưa đủ nên nhà vua lại tuyển chọn thêm giai nhân của các nước khác. Nhà vua bị bao quanh trong nữ sắc, cung tần ái phi hầu hạ ngày đêm mà nhà vua vẫn không vừa ý nên tính chuyện giết luôn quốc vương nước bạn để đoạt lấy hoàng hậu. Rốt cuộc vì tham dục quá độ và chìm đắm trong bể sắc nên việc triều chính càng ngày càng bê trễ. Cuối cùng nhân dân nổi dậy đánh đổ vương quyền và nhà vua phải chịu những ngày tàn thê thảm.

Phật dạy tiếp:

A Nan! Tham dục đưa đến tai hại như thế và vua Đảnh Sanh đó là tiền thân của ta.

A Nan nghe Phật khai thị xong thì tự nghĩ một người rất giàu tình cảm như mình cũng giống như vua Đảnh Sanh nên càng phải cấp tốc lìa xa ái dục.

Trở Thành Thị Giả Của Phật

Trong khoảng thời gian Đức Thế Tôn vừa trên 50 tuổi thì Phật nghĩ đến việc chọn A Nan làm thị giả. Phật thấy A Nan bị nhiều nữ nạn nên Ngài muốn tôn giả được cận kề Ngài để giữ được bản thân mà chuyên tâm tu đạo. Trước đó khi Phật thành đạo không lâu thì hầu cận Ngài có hai tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Sau lại đến tỳ kheo Na Ca Ba La (Nigajàla) cũng từng làm thị giả. Do đó trong khoảng 20 năm đầu sau khi thành đạo, Đức Thế Tôn không có thị giả thường trực cố định. Việc hầu cận đều do các tỳ kheo thay phiên nhau mà thôi.

Khi Đức Phật trụ tại tịnh xá Trúc Lâm thì Ngài đã ngoài 50 tuổi. Các đệ tử tỳ kheo thấy Ngài ngày càng yếu bèn triệu tập một buổi hợp để đề cử một vị thị giả túc trực lo cho Đức Phật. Các đệ tử thượng thủ hiện diện trong phiên họp nầy rất đông và người đầu tiên đứng dậy xin làm thị giả là Kiều Trần Như. Tôn giả là một trong số năm người tu khổ hạnh với Đức Phật khi Ngài còn đang trên đường tìm đạo. Tuổi tác của tôn giả thì lớn hơn Phật, nhưng nguyện đem tấm lòng thành xin suốt đời hầu hạ Phật. Phật cảm kích nhưng không chấp thuận vì Phật cho rằng tôn giả già nua chỉ cần tự lo cho mình cũng đủ rồi. Kế đó cũng có nhiều vị xin làm thị giả Phật, nhưng Ngài đều từ chối vì các vị đó cần phải đi hoằng pháp lợi sanh. Lúc ấy tôn giả Mục Kiền Liên biết ý Phật bèn rủ Xá Lợi Phất đến khuyên A Nan:

Tỳ kheo A Nan! Ý đức Thế Tôn muốn chọn ông làm thị giả. Giống như tòa lâu đài mở cửa về phía Đông thì ánh nắng sẽ chiếu thẳng đến vách phía Tây. Ông còn trẻ, mau mắn, thông minh nhu hòa, chúng tôi mong rằng ông sẽ bằng lòng.

A Nan nghe nói liền nghĩ đến trách nhiệm quan trọng bèn từ chối. Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cứ khuyên mãi, lúc đó tôn giả mới đưa ra ba điều kiện:

- Một, A Nan không mặc y phục thừa của Đức Phật, dù cũ hay mới.

- Hai, nếu có Phật tử thỉnh Phật cúng dường, A Nan không đi trước.

- Ba, không phải lúc đến gặp Phật, A Nan không đến.

Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất đem ý A Nan bạch lại với Phật về việc ra điều kiện. Đức Phật chẳng những không giận mà còn rất hoan hỷ khen A Nan:

- A Nan thật là vị tỳ kheo có phẩm cách. Ông ấy đưa ra các điều kiện trên là để tránh sự tị hiềm và đó là sự đề phòng chánh đáng. Tỳ kheo A Nan sợ các thầy phê bình là: Thầy A Nan vì muốn mặc áo đẹp, ăn ngon mới làm thị giả. Hoặc là A Nan vì vật chất mới theo hầu Phật. Ông ấy biết lo xa nên mới yêu cầu như vậy.

Từ khi A Nan làm thị giả Phật, lúc ấy tôn giả khoảng 20 tuổi, thì trong suốt 27 năm theo bên cạnh Đức Thế Tôn, tôn giả luôn luôn vâng theo ý Phật, hành động theo lời Phật dạy, thường xuyên theo túc trực bên Ngài để đi giáo hóa khắp nơi. Cũng vì nhân duyên ấy mà tất cả biển Phật pháp đều rót vào tâm của A Nan.

Vì mỗi ngày ở cạnh Đức Phật nên bao nhiêu phiền não về nữ phái cũng thuyên giảm dần dần và dĩ nhiên tôn giả là người trung gian giữa Phật và các tỳ kheo. Mặc dù vậy, A Nan thường giữ tánh khiêm tốn và kính nhường. Rất nhiều tín chúng nhờ quen biết với A Nan mà đến quy y với Phật. Tuy trước đây, A Nan bị những rắc rối với phái nữ khiến người đời có tiếng thị phi vậy mà khi có cơ hội học hỏi trực tiếp từ Đức Thế Tôn, tôn giả đã tinh tấn tu dưỡng rất thuần thực.

Phật Pháp Và Tri Kỷ

Mặc dù là thị giả của Phật, nhưng tôn giả A Nan thì chưa khai ngộ. Ngài là người thân thiết nhất của Phật mà lại chưa chứng được quả thánh A La Hán như Xá Lợi Phất hay Mục Kiền Liên, nhưng trong tăng đoàn vẫn xem Ngài ngang hàng với các bậc thượng thủ đó. Thật ra thì tâm tính ôn hòa của tôn giả khiến cho ai khi tiếp xúc qua đều cảm thấy thoải mái dễ chịu. Ngài đối với người không hề khoe điều tốt của mình ra, hoặc nói cái dở của người. Luôn luôn khuyến khích làm việc thiện, tránh xa việc ác và Ngài lúc nào cũng tận tâm giúp đỡ mọi người coi việc của kẻ khác là việc của chính mình. Ngay cả khi cùng ngoại đạo luận bàn Phật pháp, thì Ngài chỉ phát huy chánh pháp mà không phá tà. Tôn giả chưa từng có ý hại người để lợi mình vì thế tôn giả chính là tia nắng xuân ấm áp từ từ làm tan băng giá.

A Nan có duyên với chúng sanh nên tôn giả đã kết giao với rất nhiều bạn bè cư sĩ tại gia và các tỳ kheo trong tăng đoàn. Vì bản chất hiền hòa nên tôn giả thích nghe người thuyết pháp và cũng rất thích thuyết pháp cho người nghe. A Nan đối với cư sĩ như mẹ hiền thương con, còn đối với bậc trưởng lão thượng túc thì ôn hòa như em út.

A Nan có một người bạn cư sĩ tên là Lư Gi ở tại thành Ba Sa. Một hôm Đức Thế Tôn dẫn các đệ tử quang lâm đến đây và bộ tộc Ma La trong thành rất vui mừng cung nghinh. Họ cùng ước định là người nào không đi đón Phật sẽ bị phạt 200 đồng. Trong khi đó, ông Lư Gi lại là người không tin vào Phật pháp. Trong tăng đoàn Phật giáo, trừ A Nan thì ông không hề tôn kính một người xuất gia nào dù đó là Đức Phật.

Nhưng hôm đó thì Lư Gi cũng có mặt trong đoàn người cung đón Phật. A Nan thấy bạn rất đỗi ngạc nhiên mà hỏi tự sự thì ông ta nói rằng vì sợ phạt 200 đồng vàng nên phải ra đón Phật. A Nan không vui bèn đem chuyện nầy bạch với Phật. Đức Thế Tôn rất thông cảm và muốn gặp ông ta. Phật thuyết pháp khai thị những khúc mắc về giáo pháp làm cho ông ta được cởi mở tâm tình. Ông phát tâm quy y tam bảo và trở thành Phật tử tại gia.

Về sau Lư Gi thường mang các thứ y phục, thức ăn, thuốc men, ngọa cụ đến cúng dường Phật và cảm tình của A Nan với bạn càng thêm thâm thiết. Ngày xưa là bạn, bây giờ lại cùng thầy nên A Nan xem gia đình bạn như gia đình mình.

Một hôm, A Nan cần ít thước vải bèn đến nhà Lư Gi xin. Nhưng hôm ấy Lư Gi đi vắng, A Nan bèn thật tình nói với vợ con Lư Gi. Khi vợ con Lư Gi đem vải ra thì A Nan tự chọn lấy một tấm mang về. Lư Gi lúc sau nghe vợ con nói lại vội đến tịnh xá hỏi A Nan:

- Sao tôn giả không chọn thứ vải tốt, lấy làm gì thứ vải thô ấy?

A Nan cảm động đáp lại:

- Tôi không cần vải tốt. Tôi chỉ chọn khăn thô để làm khăn tắm và xin thay thế bạn cúng dường cho các vị cao tăng mà thôi.

Cảm tình giữa hai người thân thiết như vậy làm cho một số người trong tăng đoàn phản đối thái độ tự nhiên nầy, nhưng Đức Phật không hề ngăn cấm việc làm của tôn giả.

Tuy A Nan làm thị giả, nhưng tinh thần hoạt động lại không giống đường lối tân tiến của Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên và lại càng không giống sự bảo thủ của Đại Ca Diếp mà Ngài chủ trương theo đường lối ôn hòa cho nên tánh tình Ngài rất mực trung dung.

Có lần A Nan tiếp tay với Phật khuyên bảo tỳ kheo Quật Đà Nhã cố gắng tinh tấn tu hành để chứng cho được chánh quả vì vị nầy còn ham mê ái dục nên muốn ra đời bỏ đạo. Trong tăng đoàn không khỏi có sự tranh chấp nên sự hòa giải của tôn giả đã khiến cho kẻ thích gây gổ quay lại con đường thiện.

Trong và ngoài giáo đoàn, tôn giả đối với mọi người đầy pháp tình hữu nghị và Ngài luôn luôn biểu lộ tư cách và nhiệm vụ của một đại đệ tử.

Đề Bà Đạt Đa

Đề Bà Đạt Đa là anh ruột của A Nan và là một trong bảy vị vương tử đầu tiên xuất gia theo Phật. Đi tu nhưng ông ta không phát tâm chân chánh mà chỉ vì ham vui nên sau khi xuất gia ông không an tâm tu hành mà chỉ muốn học được thần thông và thích khoe những điều kỳ lạ để lòe người. Tuy là anh em ruột, nhưng tánh tình mỗi người mỗi khác. A Nan thì hiền hòa nhân hậu còn Đề Bà Đạt Đa thì nham hiểm, tính toán và không an phận thủ thường. Chính Đức phật đã nhiều lần khuyên ông ta nên hoàn tục làm cư sĩ chớ không nên ở trong tăng đoàn để gây thêm nghiệp chướng, nhưng ông không nghe.

Vì ham thích sự kỳ bí nên ông ta yêu cầu Phật dạy về pháp môn thần thông, nhưng Phật bảo ông trước hết phải lo tu tập cho thân tâm thanh tịnh mà đừng tham cầu phép lạ. Lý do là thần thông và phép lạ không đủ tiêu biểu cho đức hạnh. Sau khi nghe Phật từ chối, ông rất tức giận bèn đến nài nỉ hai Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Các vị nầy thứa biết tánh hung ác của ông nên cũng đều từ chối. Ngược lại các vị chỉ dạy cho ông tu quán đạo lý khổ, ý nghĩa chữ không, pháp vô thường và vô ngã mà thôi.

Do đó, Đề Bà Đạt Đa ôm lòng phản nghịch. Ông nghĩ rằng nếu không tiêu diệt Đức Phật thì ông ta không thể tự do tung hoành và thề rằng Đức Phật là kẻ thù không đội trời chung.

Một hôm, A Nan cùng Đức Phật đi ngang qua núi Linh Thứu gặp lúc Đề Bà Đạt Đa đang đi dạo trên đỉnh núi. Vừa thấy Phật, ông mừng thầm vì đây là cơ hội ngàn năm một thưở nên lập tức đẩy một tảng đá to nhắm ngay Đức Thế Tôn lăn xuống. Mặc dù thấy A Nan là em mình đang đi với Phật, Đề Bà Đạt Đa cũng chẳng kể tình ruột thịt. Bên dưới Đức Thế Tôn vẫn đứng yên còn A Nan thì nhảy tránh ra xa. Tảng đá rớt bên chân Phật nhưng chỉ làm sơ xát chút đỉnh bàn chân của Ngài mà thôi. Một lát sau, A Nan mới hoàn hồn hỏi thăm Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ngài không việc gì chớ? Chuyện nầy chắc lại do Đề Bà Đạt Đa gây ra, con thật không giữ nổi bình tĩnh. Thế Tôn gặp cảnh nguy hiểm quá.

Phật an nhiên đáp:

- A Nan ! Dùng bạo lực hoặc âm mưu để hại Phật đều không thể được. Trước kia Đề Bà Đạt Đa sai người giết lén ta, rồi thả voi say, bây giờ thì xô đá đè. Nhưng ông đừng lo, người nào tạo nghiệp ấy sẽ chịu hậu quả. Ta không thấy ta gặp nguy hiểm mà thấy ông bị một phen hoảng sợ, ông xem ông vừa làm gì đấy?

Đạo lực của A Nan làm sao sánh bằng Phật nên tôn giả hổ thẹn vừa cười vừa thưa:

- Con vừa mới hoảng kinh nhảy lên đã bị Thế Tôn bắt gặp.

Phật cũng cười, vỗ nhẹ A Nan rồi hai thầy trò tiếp tục đi.

Một hôm khác, A Nan theo Phật trên đường đi hoằng pháp bỗng gặp Đề Bà Đạt Đa dẫn nhiều người đi ngược chiều sắp đến. Đức Phật vội tránh sang đường khác và đi một bên đường mòn. Tuy bản tánh ôn hòa, A Nan cũng không dằn được bực tức, bèn thưa:

- Bạch Thế Tôn! Sao Thế Tôn đi né tránh Đề Bà Đạt Đa? Ông ấy là đệ tử Phật, chẳng lẽ Ngài lại sợ ông ấy sao?

Phật biết A Nan bất bình, bèn an ủi:

- A Nan! Ta chẳng phải sợ ông ấy, nhưng ta không muốn gặp mặt. Cần gì phải tiếp xúc với người ngu? Như đánh nhằm chó điên, ắt là bị cắn bậy. Với người ác tâm như ông ấy, không gặp mặt thì không phải tốt hơn sao?

A Nan nghe lời Phật dạy, tuy vẫn còn bực mình nhưng không nói thêm nữa.

Một lần khác, Đề Bà Đạt Đa đến quấy rối đạo tràng của Đức Phật. Lúc ấy Phật đang tĩnh tọa trong thất nên ông ta đứng ở giữa giảng đường la lối:

- Các thầy! Ai tin theo ta thì đến đây. Mặc cho ông ta nói gì thì nói, các tỳ kheo chẳng thèm đếm xỉa đến làm cho Đề Bà Đạt Đa tức giận quay sang A Nan nói:

- A Nan! mầy là em ta, mầy dám không nghe lời nói của ta chứ?

Một người ôn hòa nhã nhặn như A Nan mà lúc đó cũng không nhịn được nên cứng rắn đáp lại:

- Hôm nay may cho anh lắm đó. Nếu có mặt hai tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên ở đây thì chắc chắn không để cho anh thao túng như vậy. Đức Thế Tôn đang tĩnh tọa, xin anh đừng làm ồn. Anh hung ác quá đỗi mà không nghĩ sau nầy anh sẽ gặp quả báo và bị đọa vào tam ác đạo. Tôi thật buồn cho anh.

Đề Bà Đạt Đa nổi giận, muốn động thủ đánh A Nan, nhưng chưa thấy A Nan nổi nóng như vậy bèn không dám ra tay, chỉ làm thinh bỏ đi.

Ít lâu sau, ác báo của Đề Bà Đạt Đa hiện tiền nên ông phải chết một cách thê thảm. Trong lòng A Nan thật ngậm ngùi khi nghĩ đến ông anh vì ham mê lợi dưỡng mà phí cả một đời.

Phật Đoán Bảy Điềm Mộng Của A Nan

Trong suốt 27 năm làm thị giả cho Đức Phật, tôn giả A Nan lúc nào cũng tận tụy lo tròn trách nhiệm của mình. Mỗi khi có tỳ kheo, tỳ kheo ni hay tín đồ tại gia đến tham bái Phật, tôn giả đều sắp đặt thời gian rất thích hợp. Các tỳ kheo ở xa đến viếng Phật, trong khi chờ đợi thì rất thích nói chuyện với A Nan. Tất cả mọi người đều tin tưởng và thân thiết với tôn giả. Tuy tôn giả chưa khai ngộ, nhưng ai ai cũng thích nghe Ngài thuyết pháp. Họ thích A Nan giảng dạy chớ không thích A Nan làm thinh.

Thời gian thắm thoát qua nhanh, mới ngày nào mà nay tôn giả đã ngoài 50 tuổi. Một hôm, Phật đang ở tại giảng đường nơi kinh thành Xá Vệ của vua Ba Tư Nặc. A Nan đứng hầu mà trên mặt lộ vẻ lo buồn. Phật hỏi vì sao thì tôn giả thưa:

- Bạch Thế Tôn! Trong một đêm, con nằm mộng thấy bảy việc kỳ lạ cổ quái khiến lòng hoang mang lo sợ.

Phật ôn tồn hỏi tiếp:

- Ông nằm mộng thấy bảy việc gì?

A Nan thưa:

- Bạch Thế Tôn! Giấc mộng thứ nhất, con thấy nước ở sông to biển cả đều bị lửa đốt cháy và ánh lửa cao ngút thấu trời xanh.

Đức Phật nghe nói xong thì đổi sắc mặt vì xúc động và Ngài giải thích rằng

- Này A Nan! Bậc thánh không nói chuyện mộng mị. Nhưng mộng của ông quả thật kỳ quái. Nước sông ngòi biển cả bị lửa thiêu trọn, đó là tượng trưng cho các tỳ kheo trong tăng đoàn tương lai sẽ có ác nghịch mạnh, tâm lành ít oi, chấp giữ vào sự cúng dường rồi sanh ra gây gổ tạo cảnh huynh đệ tương tàn. Như nước trong lặng mát mẻ lại biến thành biển lửa. Giấc mộng thứ hai của ông ra sao?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy mặt trời sắp lặn, thế giới Ta Bà tối đen và trên bầu trời không có lấy một ngôi sao.

Đây không phải là điềm lành, nhưng Đức Phật vẫn ôn tồn giải thích:

- Này A Nan ! không bao lâu nữa ta sẽ nhập diệt và các đệ tử cũng vậy. Điều ấy biểu thị rằng con mắt của nhơn thiên sắp tiêu diệt. Còn giấc mộng thứ ba?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy các vị tỳ kheo không theo lời Phật dạy mà cũng đắp cà sa, chúng xuất gia rớt dưới hầm, còn hàng tại gia thì đi trên cầu.

Phật đột nhiên thở dài nói:

- A Nan! điều ấy ám chỉ tỳ kheo đời sau, mở đại hội giảng kinh thì chỉ nói ngoài miệng, mà thật tâm y giáo chẳng phụng hành. Họ lại tật đố để hại nhau. Họ dạy lý nhân quả mà chính mình không sợ. Họ còn xâm chiếm chùa chiền, phỉ báng tỳ kheo, hủy hoại tháp miếu. Còn điềm thứ tư thì sao?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy tỳ kheo pháp y không đủ, bị mắt kẹt trong đám gai.

Phật lại cảm xúc nói:

- A Nan! Điều ấy nói rằng các tỳ kheo sau nầy bỏ pháp y không mặc, xả giới luật và ưa thích thế tục, nuôi nấng vợ con. Đó thật là bất hạnh cho Phật pháp. Còn mộng thứ năm?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy trong rừng rậm um tùm có rất nhiều heo rừng đào bới gốc rễ các đại thọ chiên đàn.

Phật lộ vẻ lo buồn mà nói:

- Ôi! Điều ấy nói lên các tỳ kheo sau nầy chỉ tính toán sinh kế, buôn bán Như Lai, tụng kinh làm nghề nuôi thân. Mộng thứ sáu?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy voi lớn bỏ rơi voi con. Sư tử là chúa của loài thú bị chết, hoa thơm rơi trên đầu, cầm thú kinh sợ bỏ chạy, chẳng bao lâu trong thân sư tử sanh trùng bọ rồi trở lại cắn rỉa thịt sư tử.

Phật chỉ còn biết lắc đầu, nói:

- Voi lớn bỏ voi con, đó là báo hiệu các vị trưởng lão đời sau, tự lo lợi riêng, không nâng đỡ lớp thanh niên hậu bối. Trùng trong thân sư tử lại ăn thịt sư tử, đó là ám chỉ không phải ngoại đạo phá hoại Phật pháp, mà chính là hàng đệ tử xuất gia và tại gia tự phá hoại giáo pháp của ta. Còn giấc mộng thứ bảy của ông ra sao?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy đầu con cao ngang đỉnh núi Tu Di.

Phật trầm ngâm hồi lâu mới nói:

- A Nan! Sau ba tháng nữa ta sẽ nhập diệt, các tỳ kheo, tỳ kheo ni, thiện nam cũng như tín nữ khắp nơi đều nhờ ông kết tập kinh điển để truyền lại cho đời sau.

Bảy điều mộng của A Nan, qua sự giải thích của Phật, đã dự đoán sự suy đồi của Phật giáo về sau.

Lời Di Giáo Sau Cùng

Sắc thân tứ đại của Đức Phật cũng theo luật vô thường mà biến đổi. Sau 49 năm hành đạo thì Ngài sẽ nhập diệt ở rừng Long Thọ, thành Câu Thi Na cách kinh thành Ca tỳ La Vệ khoảng 30 dặm.

Giống như mặt trời sắp lặn lóe lên tia sáng cuối cùng. Trước khi nhập diệt, kim thân của Đức Phật phóng ra ánh hào quang đặc biệt khác thường. Đức Thế Tôn nằm kiết tường trên sàng tòa do A Nan trải sẵn, đầu Ngài quay về hướng Bắc và lúc đó mặt trời đã chìm ở phương Tây đưa bóng tối mông lung phủ đầy. Rừng cây Long Thọ không phải kỳ trổ hoa mà tuôn hoa đỏ thắm phủ khắp thân Đức Thế Tôn. A Nan quỳ bên Phật, nhẹ nhàng thưa hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Về sau đối với phụ nữ, chúng con phải có thái độ như thế nào? Xin Thế Tôn nói lại một lần nữa cho con rõ.

Phật từ tốn dạy rằng:

- A Nan! Ngươi muốn lìa xa phiền não, đạt đến chứng ngộ không thể bận tâm vì nữ nhân. Đặc biệt là ông, tuy bây giờ đã lớn tuổi, nhưng ông không tiếp xúc với họ vẫn tốt hơn. Nếu bắt buộc phải tiếp xúc nên xem người già như mẹ, người lớn như chị, người nhỏ như em. Này A Nan! Ông phải nhớ kỹ lời ta đấy.

Đức Thế Tôn trả lời vấn đề ấy xong, lại dạy rõ cách thức trà tỳ, xây tháp. A Nan vốn tình cảm yếu đuối nên vừa nghe xong những lời Phật dạy liền liên tưởng đây là lời dạy bảo sau cùng của Đấng Đạo Sư nên mủi lòng rơi lệ. Tôn giả không dám quỳ bên Phật, vội lùi ra sau rừng cây khóc một mình.

A Nan nghĩ đến lúc Thế Tôn nhập diệt, các đại đệ tử khác đều khai ngộ, chỉ còn Ngài thì sau nầy sẽ nương tựa vào ai để đạt đạo? Nghĩ đến từ nay về sau không còn ân sư để hầu hạ, tôn giả lại càng buồn ray rứt. Đức Phật không thấy A Nan đứng bên cạnh nên sai người ra kêu tôn giả vào. Ngài lại dạy tiếp:

- A Nan! Ông không nên buồn rầu! Có sum họp phải có biệt ly, có hưng thạnh thì có lúc suy diệt, ta chẳng từng nói với ông điều đó hay sao? Thế gian là vô thường, có sanh ắt có tử, cỗ xe đã hư nát rồi mà còn tìm cách sửa chữa lại để xài, đó không phải là kế lâu dài. Sắc thân hữu vi phải bại hoại. Đứng về pháp tánh thì ta luôn luôn chiếu cố đến các ông. Ông theo ta làm thị giả rất lâu, ân cần nhẫn nại, ông đối với ta không hề thiếu sót, ta đem công đức ấy đền đáp cho ông. Ông nên dụng tâm tinh tấn tu tập chẳng bao lâu sẽ đoạn dứt phiền não và chứng thánh quả.

Đức Thế Tôn nói đến đó A Nan lại cảm xúc khóc không ra tiếng. Đức Thế Tôn nhìn quanh đại chúng nói tiếp:

- Này các tỳ kheo! A Nan làm thị giả ta rất trung thành, theo bên cạnh ta bao nhiêu năm. Một mực ôn hòa tử tế, nghe kinh pháp không quên sót. Tương lai sau nầy công đức của ông sẽ rạng rỡ trên thế gian.

A Nan tay bưng mặt, đi ra chỗ khác. Lúc ấy nhằm ngày rằm tháng hai, ánh trăng trong suốt trải khắp rừng Long Thọ. Nét mặt lúc đó ai cũng khóc lóc bi thương cho dù bậc Thánh đi nữa cũng không thoát khỏi tình người.

Đại chúng cứ khóc hoài không chịu nín, họ quên rằng làm cách nào để cho Phật pháp tồn tại lâu dài. Mọi người bàn tính với nhau và đề cử tôn giả đến hỏi Phật mấy vấn đề.

Thứ nhất, Khi Thế Tôn nhập diệt rồi thì ai làm thầy?

Thứ hai, sau khi Phật nhập diệt, an trụ như thế nào?

Thứ ba, làm sao hàng phục kẻ ác?

Thứ tư, khi kết tập kinh điển làm sao cho mọi người có thể tin?

Đức Thế Tôn an nhiên như thường lệ, từ bi vui vẻ trả lời:

- Này A Nan ! Các ông nên nhớ kỹ. Các ông nên y theo giới luật làm thầy. An trụ trong Tứ Niệm Xứ. Gặp người hung ác thì nên lánh đi. Đầu đề kinh thì nên để:”Tôi nghe như thế nầy…” khiến người tin được. Các ông nên làm đúng như pháp vì pháp là nơi thường trụ của pháp thân ta.

Thế Tôn nói xong, mọi người nghe rồi lại cảm động, thương tâm. Tiếng nói của Ngài thật là uy nghiêm và từ ái.

Ngài lặng lẽ nhập định tuần tự trải qua các cấp thiền từ thấp tới cao rồi từ cao tới thấp và cuối cùng chủ động mà nhập diệt.

Đệ tử các nơi nghe tin đều tập hợp kéo về. A Nan nghĩ đến lúc Thế Tôn còn tại thế thì hàng nữ nhân ít có người được thấy Phật để tham bái cho nên lúc nầy tôn giả bèn ưu tiên cho các tỳ kheo ni và các tín nữ đến đảnh lễ di hài Thế Tôn trước.

Đại Hội Kết Tập Kinh Điển

Sau khi Đức Thế Tôn nhập diệt, A Nan như con thơ mất mẹ vì thế mà sau khi dự lễ trà tỳ viên mãn thì tôn giả một mình trở về tịnh xá để tưởng niệm ân sư. Trải qua bao ngày tận tụy cho ân sư thì tôn giả từ thể chất đến tinh thần vô cùng mệt mỏi nên Ngài đóng cửa thất tịnh tọa và mỗi ngày chỉ uống ít sữa mà không tha thiết nói chuyện với ai cả.

Ba ngày sau, tôn giả lên đường về thành Vương Xá ở phương Nam vì đã gần ngày kết tập kinh điển. Tuy A Nan chưa khai ngộ, nhưng tôn giả không thể không vì pháp mà quên mình để báo đền pháp thân huệ mạng cho Đức Thế Tôn.

Trên đường đi vào khoảng một tháng sau ngày Đức Phật nhập diệt, tôn giả phải đi ngang qua nước Tỳ Xá Ly. Ngày nay không còn Đức Thế Tôn nữa, nhưng vì tôn giả là cao đệ thường trực bên cạnh Đức Phật nên tín chúng mỗi ngày kéo đến tụ tập ở tịnh xá để yêu cầu tôn giả thuyết pháp. Họ càng nghe pháp thì kéo đến càng nhiều bất luận là ngày hay đêm. Dầu cực khổ, nhưng tôn giả luôn chìu ý mọi người vì đây là phương tiện tốt để khai thị cho họ.

Trong tịnh xá, có vị tỳ kheo tên Bạt Xà Phất đã chứng quả. Vì tín chúng tụ tập nói năng ồn ào làm cho thầy không thể ngồi yên tham thiền nên thầy thầm trách A Nan tự thân không chịu cầu khai ngộ mà cứ thuyết pháp cho thiên hạ.

A Nan bị đả kích nhưng không dám cãi lại vì tôn giả biết chính mình là hàng hữu học mà chưa chứng được quả A La Hán. Vì kỳ đại hội đã gần kề nên tôn giả dừng thuyết pháp cho tín chúng để về Nam. Trên đường đi, tôn giả suy nghĩ về bạn đạo chê cười châm biến, chẳng phải tôn giả không biết trình độ tu chứng của mình mà chính bản tính ôn hòa nhường nhịn khiến tôn giả hay chìu theo ý của mọi người mà làm cho bạn đạo không vừa lòng. Lời trách cứ của Bạt Xà Phất như mũi tên nhọn đâm ngay tim A Nan, từ đó tôn giả phát nguyện đem tâm hướng ngoại quay trở về bên trong để tu cho sớm được khai ngộ.

Khi A Nan về đến thành Vương Xá thì chỉ còn một ngày nữa là đến kỳ đại hội. Lúc ấy tôn giả Đại Ca Diếp được cử làm chủ tọa có nhiệm vụ tuyển chọn 500 vị tỳ kheo để tham dự đại hội. Các vị ấy đều là bậc A La Hán, cho nên tôn giả A Nan không đủ tư cách để tham dự. Đại Ca Diếp thừa biết khả năng thâm nhập giáo pháp của A Nan vì tôn giả là người duy nhất được nghe tất cả 84,000 bài kinh của Đức Thế Tôn. Nhưng nếu cho một người chưa dứt hết phiền não, có nghĩa là chưa chứng thánh quả, tham dự đại hội thì họ sợ sẽ có những lỗi lầm trước nhất là đối với Đức Phật và chúng sanh đời sau.

Mặc dầu A Nan tuy chưa khai ngộ, nhưng lại được cảm tình của mọi người nên ai ai cũng ủng hộ tôn giả. Do đó khi nghe mọi người đề cử A Nan, Đại Ca Diếp bèn nói:

- A Nan chưa chứng thánh quả, tôi cũng biết ông ấy là sư tử, nhưng hiện tại chỉ là sư tử trong bầy nai tơ mà thôi.

A Na Luật cũng đồng ý với nhận xét đó và điều nầy thật là một sự bất ngờ cho A Nan. Nhưng A Nan có bản tính quật cường, càng bị ném xuống đất thì càng vọt lên cao. Những lời đả kích là duyên tốt cho tôn giả. A Nan chẳng hề nản lòng mà tự nhủ tự thân mình cũng như hoa mai mùa đông phải chịu một cơn gió tuyết lạnh lùng mới tỏa mùi hương đặc biệt. Ngay chiều hôm ấy, tôn giả nỗ lực tu tập, trầm tư mặc tưởng, buông bỏ tận cùng và đến nửa đêm thì Ngài khai ngộ chứng quả. Ngày hôm sau, A Nan hiện đại thần thông, không đợi cửa động mở mà bay thẳng vào đại hội.

Lúc ấy phong tư của tôn giả như mặt trăng tỏ rạng vừa ra khỏi đám mây và như ánh thái dương chiếu trên những cánh hoa sen tươi đẹp. Các vị đại tỳ kheo đều kinh ngạc nhìn tôn giả biểu lộ sự tán thán. Dưới sự chỉ đạo của Đại Ca Diếp và sự đề cử của toàn thể đại hội, tôn giả lên tòa sư tử và bắt đầu tụng:

- Tôi nghe như thế nầy, một thuở…, Đức Phật ở tại nơi nọ…Tôn giả đem trí nhớ của mình tụng lại những lời thuyết pháp của Đức Thế Tôn thật là lưu loát như mây bay nước chảy. Các đại tỳ kheo trong hội một lần nữa được tiếp thọ lời dạy của Đức Phật. Mọi người đều cảm động ngay cả tôn giả Kiều Trần Như, lúc đó đã già nua, rất đỗi xúc động đến nỗi xỉu tại tòa.

Những kinh điển đầu tiên như Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A hàm, Tăng Nhứt A Hàm và kinh Pháp Cú được kết tập trong kỳ đại hội thứ nhất nầy đều do chính tôn giả A Nan tụng lại.

Tôn Giả Nhập Diệt

Khi Đức Phật nhập diệt thì Ngài truyền thừa “y” “bát” lại cho tôn giả Đại Ca Diếp. Rồi 20 năm thắm thoát trôi qua, bây giờ Đại Ca Diếp đã hơn 100 tuổi. Biết mình sắp ra đi, tôn giả bèn đem gia nghiệp Phật pháp dặn dò trao lại cho A Nan, lúc ấy cũng gần 80 tuổi. Đại Ca Diếp sau khi phú chúc cho A Nan thì ôm “bát” vào núi Kê Túc mà nhập diệt. Tôn giả kế thừa dòng pháp cũng là điều tự nhiên như hoa đến kỳ nở nhụy và đó cũng chính là niềm hy vọng của Đức Thế Tôn.

Nếu nhìn lại thì Phật pháp được phát triển rất rộng rãi từ thời Đức Phật thành đạo cho đến thời vua A Xà Thế. Nhưng sau khi Đại Ca Diếp nhập diệt thì về sau hàng đệ tử thân cận với Đức Thế Tôn chỉ còn lại A Nan mà thôi. Tôn giả tuy lãnh đạo tăng đoàn nhưng tuổi tác mỗi năm mỗi cao. Một hôm nọ trên đường đi, lúc đó tôn giả đã 120 tuổi, Ngài nghe một thầy tỳ kheo trẻ tụng bài kệ rằng:

Nếu người sống trăm tuổi,

Không thấy thủy lão hạc.

Chẳng bằng sống một ngày,

Mà được thấy hạc ấy.

A Nan nghe qua, thấy bài kệ bị tụng sai lầm một cách tệ hại như râu ông nọ cắm cằm bà kia, nên tôn giả bèn lập tức cải chánh. Bài kệ phải tụng như thế này:

Nếu người sống trăm tuổi,

Không hiểu pháp sanh diệt.

Chẳng bằng sống một ngày,

Mà được hiểu rõ ràng.

Thầy tỳ kheo kia nghe A Nan dạy xong liền trở về thưa lại với sư phụ, chẳng dè sư phụ của thầy nổi sùng nói rằng:

- Ông đừng nghe A Nan nói bậy, năm nay A Nan đã quá già thành ra lú lẩn. Ta dạy ông không sai đâu.

Thầy tỳ kheo trở lại đem lời sư phụ nói lại với A Nan. Tôn giả định đi tìm ông ta để hỏi tại sao lại nói những lời ngu si như vậy? Nhưng suy đi nghĩ lại thì con người đã thốt ra lời ấy có nói chưa chắc đã chịu nghe, nên thôi. Một vị trưởng lão ôn hòa như A Nan, một vị thống lãnh giáo đoàn đương thời và nắm trong tay giáo quyền tối thượng mà vẫn áp dụng lối xử sự nhún nhường.

Tuy vậy, một bậc trưởng lão thánh tăng đã 120 tuổi thì việc đời không còn chút lưu luyến, nhưng sau khi gặp chuyện trên lại càng chán ngán cho thế gian. Đức Thế Tôn nhập diệt chưa bao lâu mà có người đã hiểu sai Phật pháp cho nên sau nầy trong giáo đoàn sẽ có những điều tà kiến thì làm sao tránh khỏi. Ta vì Phật tụng lại giáo pháp mà mọi người lại chấp chặt vào kiến chấp của họ chứ không chịu theo đúng pháp mà làm. Vậy ta còn ở lại nơi đây để làm gì?

Nghĩ ngợi như vậy khiến tôn giả tự nhiên nhớ đến Đức Phật, rồi liên tưởng đến các vị đại đệ tử Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên…Càng nhớ lại ngày xưa làm tôn giả càng suy tư triền miên:” Ôi! Những vị ấy, như chim bay theo gió, một lúc mà tất cả đã vào cõi thánh. Trong bao nhiêu vị thánh bây giờ chỉ còn mình ta, như rừng cây bị đốn sạch chỉ còn sót lại một cây cổ thụ không đủ che mưa đỡ gió. Cõi nhân gian nầy thật trống rỗng, đã đến lúc ta nhập diệt mà thôi.

Suy nghĩ xong, tôn giả quyết định đem Phật pháp trao phó lại cho Thương Na Hòa Tu rồi ôm bát hương về hướng sông Hằng mà đi. Lúc bấy giờ vua A Xà Thế của nước Ma Kiệt Đà đang khai chiến với Tỳ Xá Ly. Tôn giả nghĩ rằng:” nếu nhập diệt ở nước Ma Kiệt Đà thì di thể không được chia cho nước Tỳ Xá Ly còn như tôn giả đến Tỳ Xá Ly nhập diệt thì họ cũng không chia phần cho Ma Kiệt Đà, cho nên tôn giả quyết định chọn sông Hằng là biên giới của hai nước và ở trên không mà nhập diệt.

Vua A Xà Thế nghe tin A Nan sắp nhập diệt thì choáng váng muốn xỉu liền tức tốc mang binh mã đuổi theo. Khi chạy đến sông Hằng thì thấy tôn giả đã lên thuyền ra giữa sông. Nhà vua bèn quỳ mọp sát đất mà lớn tiếng kêu:

Đức Phật tối thắng tự tại! Xin Ngài từ bi. Tôn giả đã ban an lành cho chúng con! Tôn giả là đèn sáng của ba cõi! Xin Ngài hãy quay trở lại.

Còn sông bên kia thì dân chúng Tỳ Xa Ly cũng tụ tập bên bờ và kêu réo như A Xà Thế. A Nan ở trong thuyền bèn nói lớn:

- Ta đã suy xét, chính vì sự oán hận giữa hai nước các ông ta mới đặc biệt đến giữa sông Hằng mà nhập diệt. Cầu mong cho các ông được hòa bình thân thiện.

Tôn giả nói xong, bèn ngồi giữa hư không nhập hỏa quang tam muội khiến di thể rơi xuống hai bên cho hai nước xây tháp cúng dường. Một tháp được xây ở giảng đường Đại Lâm phía Bắc nước Tý Xá Ly và một tháp được xây ở cạnh tịnh xá Trúc Lâm ở thành Vương Xá. Do nhân duyên nhập diệt của tôn giả khiến hai nước cởi mở oán thù, không còn gây chiến với nhau cứu được biết bao mạng sống của nhân dân. Sự hy sinh của tôn giả thật cao quý lớn lao vô cùng.

Tôn giả A Nan nhập diệt rồi thì công lao của Ngài đối với Đức Phật cũng như sự cống hiến cho Phật pháp thật là bao la vô tận. Khi biết giáo pháp thì phải nghĩ đến A Nan. Một A Nan ôn hòa từ mẫn, khiêm tốn nhân nhượng như là một ngọn đuốc soi sáng vào trong tâm của tất cả Phật tử ngàn đời về sau.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com