Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03. Tỳ-khưu-ni Yasodharā

11/10/201316:00(Xem: 11487)
03. Tỳ-khưu-ni Yasodharā

Con_Gai_Duc_Phat_Minh_Duc_Trieu_Tam_Anh_2
03
Tỳ-khưu-ni Yasodharā
(Bậc đại thần thông)


Một vị lão Ni đã chớm già trông mỏng manh như cành liễu nhưng thần sắc tinh anh, dáng dấp sang trọng, dung nghi cao quý như mệnh phụ với những bước chân vững chãi, thảnh thơi đang từ từ theo con đường mòn ruột dê đi dần xuống núi...

Đấy là trưởng lão ni Yasodharā, năm ấy bà đã bảy mươi tám tuổi.

Mấy tháng nay, bà trú ngụ nơi một hang đá đáng yêu có dây leo tua uốn nở những đóa hoa dại thơm hương; có mấy con sóc nâu vằn cắn hạt vui tai; có chú chuột núi thập thò, thập thò nhưng chẳng tìm ra vật gì để mài răng gặm nhắm cho đỡ buồn; có mây gió lang thang sớm, có sương mù lãng đãng chiều, có trăng khuya thênh thênh vô ngại tới lui thăm viếng, bầu bạn... Thật là viên mãn thanh tịnh, viên mãn độc cư, viên mãn yêu thương và viên mãn niềm vui siêu thế. Trong không khí, trong cây rừng và cả trong từng tâm niệm, ý nghĩ đều thanh trong, vô nhiễm, không dính một hạt bụi phiền lao vi tế! Tuy nhiên, sang nay, bà thấy rõ ngọn đèn sinh mệnh sắp cạn dầu, lụn bấc.

Giờ Niết-bàn đã đến rồi. “Thọ hành” đã đánh trống, đã thổi kèn báo động trong từng tế bào, trong từng vi thể tủy xương. Mặc dầu tử thần không dám ngông nghênh cầm lưỡi hái đến gõ cửa để dọa nạt, khủng bố ai, nhưng bà tự biết là bà sẽ ra đi và tự làm chủ hơi thở cuối cùng, thong tỏ sát-na tâm niệm cuối cùng. Và khi mà thần thức đã tìm chỗ “chẳng bị sanh, chẳng bị diệt” thì ma vương, cả năm loại ma vương kia chẳng thể làm gì được1, chẳng lần ra manh mối của cây đèn tắt, ngọn lửa sẽ đi về đâu!?

Trưởng lão Ni Yasodharā nở nụ cười tiêu sái, vô sự rồi tự nghĩ: “Ai rồi cũng vậy thôi. Ta ra đi rồi đức Đạo sư cũngra đi. Như Ni trưởng Gotamī đã ra đi hơn mười năm vềtrước. Hai vị thượng thủ cũng đã đi rồi. Giáo hội càng ngàycàng trống không. Mang cái thân cát bụi phải trả về cho cátbụi. Ta phải đi xin phép đức Thế Tôn để cho cái thân nàyđược vĩnh viễn yên nghỉ. Ta đã liễu tri trọn vẹn cái trò chơiảo ảnh, ảo giác của các định luật hữu vi kia rồi. Và cả cái cănnhà bản ngã thường bày đặt nhiều lời, lắm chuyện này nữa!”

Bà lại mỉm cười một lượt nữa, dịu dàng như mảnh trăng buổi sơ thu rồi vừa đi vừa nghĩ tiếp. Cuốn phim từ từ quay. Từng hình ảnh hiện ra.

Đây là thuở đức Phật về thăm quê nhà sau hai nămđắc quả Tam minh. “Ông ấy” ân cần và dịu dàng nắm tay vua cha từng bước thong thả tiến về biệt cung của ta. Là bậc

1 Năm loại ma: Phiền não ma vương, pháp hành ma vương, ngũ uẩn ma vương, tử thần ma vương, chư thiên ma vương.

Toàn Giác, ngài biết tâm sự của nữ nhân, của Yasodharā, dễ cảm xúc, dễ tủi thân, tủi phận! Chính ngài phải đến thăm Yasodharā, chứ không phải Yasodharā đến thăm ngài! Và “ông ấy” đã nghĩ đúng! Trong lúc đó thì ta đã được nghe tràn tai về đấng phu quân của mình, vừa mừng, vừa tủi, vừa nôn nả, háo hức, vừa hồi hộp, run rẩy; ta

đã tự nghĩ: “Nếu trong thời gian thái tử vắng mặt, támnăm ròng rã, ta lõm khuyết đức hạnh, ta mòn vẹt thủy chungthì thái tử sẽ không đến thăm ta; bằng ta là một viên ngọcmai không tỳ vết thì chính thái tử phải đến thăm ta dù ‘ôngấy’ có là một bậc Chiến Thắng Vĩ Đại chăng nữa!”

Và quả thật vậy, “ông ấy” đã đến rồi! Khi đức Phật vừa ngồi trên bảo tọa đã được sắp đặt sẵn, ta mặc tấm lụa sarī màu vàng trăng, chẳng châu báu điểm trang, chẳng hoa hương lòe loẹt, đã từ hậu cung, đi bằng hai đầu gối, đến bên chân “ông ấy”, quỳ úp mặt vào bàn chân bụi của ngài, khóc ròng rã, khóc như chưa bao giờ được khóc. Đức Phật cứ để yên vậy vì “ông ta” “vịvua của tâm lý”. Một lát sau, khi biết những giọt nước mắt kia đã chảy trôi đi những cảm xúc lâu ngày dồn nén lại, “ông ấy” mới dịu dàng nói:

“- Này Yasodharā! Này Gopā! Như Lai vẫn không khácxưa lắm đâu! Như Lai vẫn là con người cũ đó thôi! Nhưngbây giờ, tâm Như Lai thanh tịnh hơn, trí Như Lai quangrạng hơn! Như Lai đã tìm ra giá trị vĩnh hằng của cuộc sốngmà đã một thời, chúng ta, các ông hoàng, đã cùng nhau thaothức, đã cùng nhau trăn trở! Bây giờ, Như Lai là hiện thancho cái gì vừa ở bên trong cuộc đời này mà đồng thời, cũngở bên ngoài và ở bên trên chúng nữa. Cái ấy là kết quả cuốicùng trả lời đáp số cho bài toán tâm linh đã từng vô phươnggiải quyết thuở nào. Do vậy, Như Lai không còn sống choriêng mình, mà là sống vì hạnh phúc và an vui cho chúngsanh ba giới bốn loài! Này Gopā! Nàng là bậc trí, là nữ nhianh thư kiệt hiệt, là kẻ cùng chung vui khổ với Như Lai, cùngchung hạnh nguyện ba-la-mật với Như Lai, Gopā phải cầnbiết như thế chứ!”

Được lời như cởi mở tấm lòng, ta lau ráo đôi mắt tưởng đã khô lệ từ lâu.

Hoàng hậu Gotamī trìu mến nhìn ta rồi bà ca tụng công đức của ta không hết lời:

- Từ lúc thái tử ra đi, công chúa vô cùng sầu muộn, như mất một bảo vật trân quý nhất ở trên đời; tuy nhiên nàng vẫn giữ được sự tự chủ hiếm có. Niềm an ủi lớn nhất của công chúa chính là Rāhula, khi trẻ nói cười, đùa giỡn, chạy tới chạy lui líu lo, vô tư, vô lự! Khi nghe thái tử sống đời du sĩ, lang thang không cửa, không nhà, công chúa cũng đã tự vất bỏ châu báu điểm trang, chỉ quàng tấm sarī màu trắng dị giản! Khi nghe thái tử sống đời khổ hạnh, công chúa cũng bắt đầu từ bỏ vật thơm, dầu thoa, giường cao, chăn ấm; chỉ gối cây, nằm đất và mỗi ngày chỉ dùng một ít vật thực vào buổi trưa! Biết bao vương tôn, hoàng thân, công tử giàu sang, hào hoa, quý phái xứng đôi, vừa lứa tìm đến nhăm nhe dạm hỏi, công chúa đều thẳng thừng từ chối không đáp lời, không tiếp đối! Khi nghe thái tử đã đắc thành quả Phật, đắp y vàng dẫn đầu đoàn sa-môn thanh tịnh về thăm quê hương thì công chúa cũng quàng tấm sarī màu vàng trăng như thế này đây!

Xem đấy, không những công chúa có đức hạnh vẹn toàn mà còn biết cảm thông, chia sẻ với thái tử trong mỗi năm, mỗi tháng, mỗi ngày xa cách, biệt ly!

- Mẫu hậu đừng nói nữa! Ta cảm thấy hổ thẹn nên mở lời cản ngăn rồi đi đến bên cạnh lệnh bà – Thái tử bây giờ đã là một vị Phật rồi, chẳng có gì mà vị Phật lại không

biết!

- Phải đấy, này Gopā! Chẳng có gì mà Như Lai không biết! Và Như Lai còn biết nhiều hơn thế nữa! Rồi ngài quay sang, như nói chuyện với đức vua và hoàng hậu Gotamī - Gopā là thế đấy, không những bây giờ, mà đã từ vô lượng kiếp trước, từ thời đức Phật Dīpaṅkara (Nhiên Đăng) rồi trải qua hai mươi bốn vị Chánh Đẳng Giác, nàng luôn chính đính, đoan trang, tiết hạnh, thủy chung; chia vui, sẻ buồn; không ngừng giúp đỡ Như Lai, nâng đỡ Như Lai, khuyến khích Như Lai trên đường tấn tu thánh nghiệp!

Nói thế xong, đức Phật vén bức màn quá khứ:

- Cách đây phỏng chừng bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp, có đức Phật Dīpaṅkara xuất hiện. Thuở ấy có chàng thanh niên Sumedha, xuất thân gia đình bà-lamôn cự phú, thiên tư thông tuệ, tài mạo và sở học đều xuất chúng. Sau khi cha mẹ qua đời, thanh niên Sumedha đã làm một cuộc bố thí hào phóng, vĩ đại, xả ly tất cả gia sản kim ngân châu báu rồi lên non sống đời đạo sĩ vô sản, bần hàn. Tuy ăn trái cây rừng và uống nước suối, nhưng nhờ tinh cần tu tập, đạo sĩ đắc bát định và ngũ thông sau tháng năm cần khổ; tuy nhiên, chàng biết rằng, bài toán phiền não và đau khổ chưa có được sự giải đáp tận cùng!

Hôm kia, tại thành phố Rammavāti, dân chúng xôn xao chuẩn bị đón tiếp đức Phật và hội chúng Thánh Tăng; họ phải cùng nhau ra tay làm một con đường dài do mưa

lũ xói mòn, bùn sình lầy lội!

Mới nghe đến danh từ Phật (Buddho!), tâm trí thanh niên đạo sĩ Sumedha bị chấn động mãnh liệt. Ôi! Cái danh từ ấy như gợi nhắc thâm sâu của mọi hướng thượng tìm

về!? Như một nguyên động lực nào đó xua vẹt bóng tối mê mờ để tao ngộ với chân diện mục bản nguyên!? Thế là chàng bèn khởi tâm đóng góp một tay vào công đức này, xin đảm nhận một quãng đường khó khăn nhất!

Chàng suy nghĩ: “Nếu ta sử dụng thần thông thì trongnháy mắt con đường sẽ xong ngay, nhưng nếu làm vậy thìchẳng đổ mồ hôi, chẳng phải tổn hao sức lực; rốt lại, chẳng cómột ý nghĩa, một giá trị hữu vi nào !”

Thế rồi, thanh niên đạo sĩ bèn sử dụng sức lao động của mình! Cũng quần quật, đổ mồ hôi, sôi nước mắt như mọi người. Cũng chân lấm tay bùn như những ai khác.

Khi đức Phật và hội chúng ngự giá đến nơi, con đường dài đã phẳng phiu, phong quang, sạch sẽ, khô ráo; nhưng phần đường do chàng đảm nhiệm lại còn một “tí xíu”chưa hoàn thành!

Nhìn đoạn đường sình lầy chỉ còn chừng một đòn gánh, thanh niên đạo sĩ Sumedha đã có chủ định phải giải quyết như thế nào rồi. Tuy nhiên, khi đức Phật Dīpaṅkara và hội chúng thánh Tăng đã đi gần đến nơi, thấy tướng hảo quang minh của ngài, thanh niên đạo sĩ khởi tâm tịnh tín, muốn cúng dường cái gì đó nên cứ đưa mắt nhìn

quanh! Trong đám đông dân chúng, đạo sĩ chợt nhìn thấy một cô gái bà-la-môn quý phái xinh đẹp, đang cầm trên tay tám đóa hoa sen! Và lạ lùng làm sao, cô gái diễm lệ ấy cũng đang chăm chú nhìn chàng! Kìa, có phải hai ngôi sao âm dương đang hút nhau đấy không? Cô gái ấy tên là Sumittā, khi nhìn thấy Sumedha thì trái tim của nàng xao xuyến mãnh liệt; và rồi chợt như hiểu được nguyện vọng của chàng đạo sĩ tuấn tú, nàng bèn mở miệng hoa, thốt lên, líu lo như oanh như yến:

- Trong tám đóa hoa sen này, ba đóa là phần của thiếp để cúng dường đến đức Phật, năm đóa còn lại là phần của chàng, nhưng với một điều kiện...

- Cô nương hãy cứ nói đi! Thanh niên đạo sĩ Sumedha hối hả tiếp lời - Bất cứ điều kiện gì mà trong khả năng của ta có thể làm được! Ta cần cúng dường gấp!

Nàng Sumittā mỉm cười, đôi má như có ửng nắng hồng:

- Tướng mạo và phẩm cách của chàng thật là tuyệt vời! Ngay chính bộ y phục bằng vỏ cây, lá cây kia cũng kiêu hãnh và thanh cao như thách đố mọi đức hạnh trong

trời đất, như nhạo báng cả thế gian tối tăm và xấu ác này!

Công đức hoàn thiện con đường để nghinh đón đức Phật của chàng cũng là một cái gì lạ lùng mà sức vóc con người không thể làm được. Tất cả dân chúng đều nói như thế và họ ghi nhận kỳ tích hy hữu này! Với nhân tối thượng như vậy, với duyên tối thượng như thế, trong tương lai, chắc chắn chàng sẽ thành tựu được sở nguyện vĩ đại trong lộ trình đi và đến của mình!

Thiếp nguyện được nương theo bên chàng, chỉ xin như là chiếc bóng thôi, được nâng khăn sửa túi cho chàng trong vô lượng kiếp sau...

Trái tim đạo sĩ trai trẻ chợt rung động, nó tự làm cái việc của riêng nó mà không thèm hỏi ý kiến ai! Rồi, gắng giữ yên lặng được một sát-na, chàng nói:

- Ta sẵn sàng, và xin vui lòng đồng ý với điều kiện ấy, nhưng nàng hãy hứa là đừng cản trở chí nguyện và những công hạnh ba-la-mật của ta mới được!

Thiếu nữ bẽn lẽn cúi mặt gật đầu ưng thuận rồi trao cho thanh niên đạo sĩ năm đóa sen tươi thắm. Rồi cả hai, không hẹn, cùng nắm tay nhau, chạy đến quỳ bên chân đức Phật, đồng dâng tám đóa sen lên ngài! Việc vừa xong, thanh niên đạo sĩ Sumedha chợt sụp xuống đất, ôm chân bụi của đức Chánh Đẳng Giác, thốt to lên rằng:

- Chỉ còn một khúc đường sình lầy, đệ tử xin nguyện lấy tấm thân giả hợp xấu xí, ô trọc này để trải đường cho đức Thế Tôn và Thánh chúng bước lên! Xin nguyện công

đức của ngày hôm nay, của việc làm này, mai sau đệ tử sẽ đắc thành quả vị Chánh Đẳng Giác vì an vui hạnh phúc cho mình, cho chư thiên và loài người!

Phát nguyện thế xong, thanh niên đạo sĩ Sumedha vội đến nằm sấp vào đám sình!

Đức Phật chợt hướng tâm, thấy và biết mọi nhân, mọi duyên, mọi quả! Ngay giây khắc ấy, đức Toàn Giác nghe rõ, quả đất đang rung động vì lời nguyện vô thượng của

thanh niên đạo sĩ; chư thiên, phạm thiên khắp mấy tầng trời đang rải hoa mạn-đà xưng tán, ca ngợi công đức vô thượng ấy; ngài bèn quay sang nói với đại chúng rằng:

- Có hai việc vừa xẩy ra được xem là hy hữu trên đời này! Việc thứ nhất là tám bông sen của chàng trai tuấn tú và cô gái xinh đẹp. Với sự thành tâm phát nguyện của họ, cả hai sẽ nên duyên tình nghĩa vợ chồng từ đời này sang kiếp khác; luôn đầm ấm, thủy chung và luôn khuyến khích, nhắc nhở nhau trên lộ trình tu tập!

Việc hy hữu thứ hai, là thanh niên đạo sĩ này, với lời nguyện vô thượng của mình, thực hành ba-la-mật trong thời gian bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp, trải qua hai mươi bốn vị Phật, chàng ta sẽ thành tựu quả vị Chánh Đẳng Giác đúng như ước mơ và sở cầu!

Rồi đức Phật quay sang hai người:

- Này Sumedha! Ước nguyện của con sẽ được thành tựu; và bắt đầu từ kiếp sau, Sumittā sẽ là người bạn đời chung thủy của con như chim liền cánh để bay qua sông

dài biển rộng; sẽ đồng tâm, đồng chí, đồng phước, đồng nghiệp, đồng nhân và đồng quả! Và này Sumittā! Con sẽ được nhiều hạnh phúc như ý và chẳng bao giờ cản trở chí nguyện của chồng con đâu!

Kể đến ngang đây, đức Phật kết luận:

- Giàu sang, vương giả, địa vị, danh vọng, quyền lực và tiền bạc... vốn chưa phải là điều kiện cần và đủ để mang lại hạnh phúc cho con người. Thêm cả tình yêu thương nữa, cũng chưa trọn vẹn, mà còn cần sự hiểu biết, thông cảm và tôn trọng lẫn nhau. Sumedha và Sumittā đã vô lượng kiếp nên duyên chồng vợ; và cũng từng ấy kiếp, Sumittā luôn sát cánh, chung vai với người bạn đời của mình thực hiện con đường vô thượng. Sumittā thuở ấy giờ là Yasodharā, còn Sumedha chính là Như Lai vậy.

Câu chuyện đức Phật kể xong, ai cũng xúc động.

Riêng Yasodharā thì bồi hồi, rưng rưng giọt lệ; nhưng là những giọt lệ tươi tỉnh, hạnh phúc.

Hoàng hậu Gotamī khẽ ôm vai công chúa, thốt lên rằng:

- Đúng là như thế! Yasodharā luôn là như thế, kể từ đêm thái tử rời bỏ kinh thành. Chính công chúa tinh ý nên biết tất cả và đã âm thầm hỗ trợ cho thái tử ra đi theo chí nguyện của mình! - Đúng vậy! Đức Phật gật đầu! Như Lai biết! Yasodharā chưa bao giờ ngủ mê đến đỗi không hay biết gì cả! Giấc ngủ của Yasodharā, tuy là giấc ngủ ngon nhưng luôn luôn tỉnh táo. Khi thấy Channa chuẩn bị sẵn áo bào dạ hành và lương thực, Như Lai lại càng hiểu rõ sự hỗ trợ ngấm ngầm của nàng, vì tâm trí của Channa chưa đến độ tinh tế như vậy!

Đến lúc này thì công nương Yasodharā mới nở nụ cười tươi rạng như ánh trăng. Bà tự nghĩ: “Không có gì giấu đượcông ta, xưa vẫn vậy, nay vẫn vậy, kể cả ý định ta muốn Niếtbàntrước ngài”.

Thế rồi, cũng tại Vesāli, cũng tại Ni viện, một nhân vật lừng danh lại an nghỉ Niết-bàn. Bà ta là vị trưởng lão Ni thầm lặng, thành đạt trọn vẹn tuệ phân tích, vô ngại giải nhưng ít khi muốn giảng thuyết đó đây. Lại là một trong bốn vị có đại thần thông mà chẳng lúc nào hiển thần ra oai để giáo hóa đồ chúng1. Đúng là bà chỉ muốn là chiếc bóng như lời nguyện thuở xưa. Bà là người vợ hiền mẫu mực theo thế gian quy ước, nhưng lại được sinh ra trong giáo pháp bất tử, là một trong những người con hy

hữu của đức Tôn sư vô thượng.

Một ngôi sao nữa lại tắt, nhưng ánh sáng ấy còn tỏa rạng và thơm hương cho đến ngày hôm nay, sau gần ba ngàn năm, giáo pháp leo lên đỉnh cao đã bắt đầu tụt dần xuống bên kia dốc núi.

1 Theo chú giải bộ Anguttara Nikāya thì, trong thời Phật chỉ có 4 vị có đại thần thông (Mahā Abhiñña), đấy là hai vị đại đệ tử, tỳ-khưu vị tằng hữu Bakkula và đức Bhadda Kaccānā (tức Yasodharā).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2013(Xem: 21978)
Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với câu chuyện đời của Đức Phật. Chúng ta biết rằng thái tử Siddhattha đã rời bỏ cung điện lộng lẫy của vua cha, để bắt đầu cuộc sống không nhà của người lữ hành lang thang đi tìm con đường tâm linh, và sau nhiều năm tu hành tinh tấn, Ngài đã đạt được giác ngộ khi đang nhập định dưới gốc cây bồ đề. Sau khi xả thiền, Đức Phật đã đi đến thành phố Benares, giờ được gọi là Varanasi. Ở đó, trong Vườn Nai, lần đầu tiên Ngài thuyết pháp về những gì Ngài đã khám phá về con đường đi đến hạnh phúc toàn vẹn. Lời dạy của Đức Phật rất đơn giản nhưng sâu sắc.
08/12/2013(Xem: 26026)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu. Tuy nhiên, thân thể ta là một hợp thể rất mầu nhiệm, nó chứa đựng cả tinh hà vũ trụ bao la. Ta thấy được tất cả các thế hệ tổ tiên, con cháu của ta đều có mặt trong thân ta. Ta cảm nhận sự có mặt của họ trong từng tế bào của cơ thể. Họ luôn có mặt trong ta và chung quanh ta. Họ cũng như các yếu tố khác đã kết hợp lại để làm nên sự sống của ta. Ta có thể tiếp xúc với những yếu tố như đất, nước, lửa và không khí - bốn đại trong ta và ngoài ta. Ta thấy ta như một con sóng trên mặt đại dương. Con sóng này được hình thành bởi các con sóng khác.
03/12/2013(Xem: 52157)
Người ta thường nói :"Ăn cơm có canh, tu hành có bạn". Đối với tôi, câu nói này thật là quá đúng. Ngày nhỏ chưa biết gì nhưng từ khi làm Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử tôi đã thấy ích lợi của một Tăng thân. Chúng tôi thường tập trung thành từng nhóm 5,7 người để cùng nhau tu học. Giai đoạn khó khăn nhất là sau 75 ở quê nhà. Vào khoảng 1985, 86 các anh lớn của chúng tôi muốn đưa ra một chương trình tu học cho các Huynh Trưởng trong Ban Hướng Dẫn Tỉnh và những Htr có cấp nên đã tạo ra một lớp học Phật pháp cho các Htr ở Sàigòn và các tỉnh miền Nam. Nói là "lớp học" nhưng các Chúng tự học với nhau, có gì không hiểu thì hỏi quý Thầy, các Anh và kinh sách cũng tự đi tìm lấy mà học. Theo qui định của các Anh, Sàigòn có 1 Chúng và mỗi tỉnh có 1 Chúng. Chúng tu học của chúng tôi (Sàigòn) có tên là Chúng Cổ Pháp và phải thanh toán xong các bộ kinh sau đây trong thời gian tối đa là 3 năm:
25/11/2013(Xem: 16757)
Nhìn vào tín ngưỡng Phật giáo nhiều người thường thắc mắc tại sao lại có nhiều "thứ" đến thế! Thật vậy Phật giáo có rất nhiều học phái, tông phái, chi phái..., một số đã mai một, thế nhưng một số vẫn còn đang phát triển và đồng thời cũng có nhiều chuyển hướng mới đang được hình thành. Đối với một người tu tập Phật giáo thì sự kiện ấy thật hết sức tự nhiên: tất cả mọi hiện tượng trong thế giới đều chuyển động, sinh sôi nẩy nở và biến đổi không ngừng. Nếu nhìn vào các tín ngưỡng khác thì ta cũng sẽ thấy cùng một hiện tượng như thế.
30/10/2013(Xem: 34683)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
26/10/2013(Xem: 53671)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
17/10/2013(Xem: 36190)
Tôi đọc kinh sách, nghe giảng và học hỏi, đồng thời rút kinh nghiệm trong những năm qua cùng các pháp hữu nghiên cứu và hoằng truyền chánh pháp, đặc biệt với đạo hữu Nguyên Phước. Thấy cần, rút ra một số nét cơ bản để chia xẻ cùng quý Phật tử thật dễ đọc, dễ hiểu, dễ thực hành trong niềm tin Phật pháp.
08/08/2013(Xem: 29821)
Năm 2010, tại Sài Gòn diễn ra đại hội “Con gái đức Phật” quy tụ hội chúng tỳ-khưu-ni và cận sự nữ Nam Bắc tông trên khắp thế giới về tham dự.Tôi không biết gì về nội dung cũng như hình thức đại hội ấy, nhưng cụm từ “Con gái đức Phật” tôi nghe sao nó dễ thương, bình dị và rất gần gũi với ngôn ngữ đời thường. Từ đó, tôi khởi tâm biên soạn một cuốn sách để giới thiệu về những vị Thánh Ni và những cận sự nữ có hành trạng đặc biệt và thù thắng thời đức Phật và đặt tên đầu sách là “Con gái đức Phật”.
09/04/2013(Xem: 5574)
Một trong những vai trò phục hưng xã hội và cách mạng văn hóa của Đức Phật, điều mà đôi khi bị các sử gia lãng quên, đó là giải phóng phụ nữ. Đức Phật phát huy một cuộc cách mạng trong tư tưởng và trong lối cảm xúc của đại chúng bằng cách công khai và can đảm tuyên bố rằng người nữ có thể đạt đến mức tiến bộ tuyệt đỉnh, thành tựu trí tuệ thâm sâu dẫn tới Niết bàn.
09/04/2013(Xem: 5632)
Hai truyền thống của Nam và Bắc truyền đều thừa nhận rằng, vào thời hoàng kim Phật giáo, mười ba năm đầu trong Tăng đoàn không có giới luật, nhưng sau đó sự lớn mạnh của Tăng đoàn, sự khác biệt về nhận thức nên đức Phật đã chế ra giới luật để “phòng hộ các căn” nhằm giúp cho mỗi thành viên trong Tăng đoàn được thanh tịnh và giả thoát. Thiết nghĩ, Bát kỉnh pháp cũng không ngoài những thiện ý đó!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567