Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06. Boonliang: Nữ tu Thái Điều Hành Tổ Chức Từ Thiện

26/01/201204:17(Xem: 7358)
06. Boonliang: Nữ tu Thái Điều Hành Tổ Chức Từ Thiện

PHẬT GIÁO & NỮ GIỚI

NỮ GIỚI & PHẬT GIÁO
(Truyền Thống, Cải Cách, Phục Hồi)
Biên soạn: Ellison Banks Findly
Chuyển ngữ: Diệu Liên Lý Thu Linh, Diệu Ngộ Mỹ Thanh, Giác Nghiêm Nguyễn Tấn Nam

Phần III
CẢI CÁCH XÃ HỘI VÀ CHÍNH TRỊ


BOONLIANG:Tu Nữ Thái Điều Hành Tổ Chức Từ Thiện
Martine Batchelor


Mae Chi Booliang, 65 tuổi, nhưng đã là nữ tu sĩ được 45 năm. Bà rất năng động, khiêm cung và cởi mở. Trước đó, bà đã từng thuyết pháp nhưng giờ bà là người điều hành một thiền viện ni và một tổ chức từ thiện ở Bangkok.

***

Tôi xuất gia năm 19 tuổi. Năm 16 tuổi, tôi bị bịnh rất nặng. Ở miền bắc đất Thái có một truyền thống là nếu một đứa trẻ bị bịnh nặng, thì để cho đứa trẻ mau hết bịnh, cha mẹ sẽ xin cho nó được xuất gia gieo duyên. Vì vậy, khi được 19 tuổi, tôi đến chùa để xuất gia gieo duyên trong thời gian một năm. Sau đó, tôi vẫn còn bịnh và không muốn trở thành sư cô trong tình trạng này. Vì vậy tôi đến Lục Bảo Thạch Phật (Emerald Buddha) ở Bangkok và cầu nguyện với đức Phật rằng, nếu như ngài không muốn tôi trở thành người tu, xin ngài hãy giải thoát cho tôi. Nếu tôi phải làm cư sĩ, thì tôi sẽ vâng theo như thế. Nếu không phải thế, thì xin Ngài hãy khiến cho một điều gì đó xảy ra. Vào lúc ấy cha tôi bị bịnh rất nặng và qua đời. Lúc ấy, tôi cảm thấy rằng mình chẳng còn ai để nương tựa vào nữa, vì vậy tôi đã ở lại chùa làm sư cô.

Tôi đến một ngôi chùa và ở lại đó mười bốn năm. Tôi thiền, tụng kinh và hành lễ cho các đám tang, nhưng tôi cảm thấy mình chẳng đi đến đâu. Tôi nghe nói đến một ngôi chùa mà ở đó người ta hành thiền nhiều hơn. Nghe nói nơi đó là rất thích hợp cho nữ tu sinh sống và hành thiền. Không cần phải tụng kinh nhiều hoặc tế lễ cho các đám tang. Tôi dọn đến sống ở ngôi chùa đó được một năm.

Cuối cùng, tôi đến thăm Mae Chi Ghee ở Ragburi, nơi mà người ta hành thiền nhiều hơn ngủ. Mae Chi Ghee nói với các sư cô rằng khi hành thiền, họ cần phải quán sát hết mọi thứ và không để quên bất cứ gì, giống như khi họ quán sát thiên nhiên. Một ngày kia, khi đang hành thiền, tôi chợt nhìn thấy một máng xối rỉ sét, và tự nhiên tôi cảm thấy buồn và tiếc nuối rằng nó đã bị hư hoại. Tôi đã trải nghiệm được rằng cuộc sống là vô thường. Tôi hiểu được Pháp từ cái máng xối ấy. Ngay lúc ấy, tôi quyết chí sẽ suốt đời làm người tu.

Tôi đến ni viện này và tham gia tổ chức từ thiện ở Bangkok, vì Mae Chi Prapit yêu cầu tôi làm ni trưởng tại đây. Tôi đã luống tuổi và cũng đã nhiều năm tu, nên tôi sẽ quản lý tốt nơi này. Tôi trụ lại đó được hai mươi lăm năm, dầu trước đây sau ba năm, tôi đã muốn rời khỏi nơi đây để lại được hành thiền với Mae Chi Ghee, nhưng tôi được thỉnh cầu tiếp tục làm nhiệm vụ ni trưởng và thực hiện những nhiệm vụ quan trọng khác ở Phật Học Viện Dành Cho Nữ Tu Thái.

Ni viện này là nơi dành cho các thiếu nữ trẻ muốn xuất gia, hoặc muốn được huấn luyện để giúp đỡ những dân làng nghèo khó. Khởi đầu, chương trình này không được thuận lợi, tôi đã không biết làm thế nào để các thiếu nữ trẻ Thái này có thể trở thành những nữ tu đạo hạnh. Các sư khuyên nên dạy họ học may. Vì thế, họ đã cầu nguyện, tụng kinh, và học may cũng như học thiền. Các nữ tu hứa rằng sau khi hoàn tất khóa học, họ sẽ ở lại ni viện hai năm. Rồi sau hai năm, họ có thể ở lại đây, chuyển đến một ni viện khác, hoặc hoàn tục. Tất cả hoàn toàn miễn phí. Họ hứa rằng trong hai năm đó, họ sẽ đi đến các vùng nông thôn để giảng Pháp cho dân làng.

Các thiếu nữ học ở đây đến từ những làng mạc xa xôi. Cha mẹ của họ rất nghèo. Họ đến đây để được học Phật pháp và tập may vá. Khi quay trở về làng quê, họ có thể có một nghề trong tay. Nhưng vì ni viện có nhiều điều luật khá nghiêm khắc, một số không tuân giữ được, nên đã ra đi. Nếu bỏ học trước thời hạn hai năm, họ phải trả ba trăm bahtcho tiền ăn, chốn ở, và chi phí sinh hoạt hàng tháng. Nhưng nếu bị đuổi học vì quá cứng đầu, không vâng lời hoặc quá hư đốn, thì họ không phải trả bất cứ chi phí nào.

Sau khi tốt nghiệp, đa số các thiếu nữ hoàn tục. Họ có thể tìm được việc làm tốt ở các hãng xưởng hoặc trong các tiệm làm hoa. Họ biết cách cư xử và là những công nhân tốt, nên chủ nhân thường rất hài lòng về họ. Các sư cô thì rời thiền viện để tiếp tục việc học thêm vì đa số có rất ít học thức trước khi đến đây. Quỹ Á Châu sẽ giúp đỡ họ. Chúng tôi có rất nhiều người giúp đỡ như Quỹ Á Châu, một số cơ quan chính phủ, và nhiều hội đoàn phụ nữ.

Đây là chương trình phúc lợi xã hội, vì thông thường những người phụ nữ này rất ít có được cơ hội. Nếu được đến đây, họ có cơ hội để học tập và giúp đỡ người khác. Trong ni viện này, chúng tôi chỉ dạy cho các tu nữ, và những vị này sẽ đi đến các thôn làng để dạy lại cho các cư sĩ. Như sáng nay, quý vị đã nhìn thấy một nhóm dân làng đến chào từ biệt các sư cô đã dạy họ.

Tôi chỉ là người quản lý. Mỗi ngày tôi dậy 4 giờ sáng và hành thiền. Sau đó tôi kiểm kê tài chánh và giám sát việc giảng dạy. Tôi cũng lo tiếp các vị khách vãng lai. Tôi có chút mệt mỏi và muốn từ chức, để các sư cô khác lo việc quản lý. Nhưng tất cả họ đều muốn tôi ở lại dù tôi chẳng làm gì cả; họ muốn tôi ở lại để làm ni trưởng giám sát và điều hành, còn mọi việc khác đều do họ lo hết. Có khoảng bốn mươi người trong ni viện. Có ba vị giáo thọ: một vị giảng pháp, một vị dạy may, và một vị dạy làm hoa giả.

Là người Thái, tôi có bổn phận giúp đỡ cho đất nước tôi. Chính phủ, hoàng gia và giáo hội cần phải giúp đỡ lẫn nhau. Rất tiếc là tôi chỉ có thể dạy được một số ít các sư cô, vì ngân khoản eo hẹp. Tôi đã xuất gia nhiều năm, đã biết rằng tất cả mọi thứ đều là vô thường (anicca): mọi thứ thay đổi. Tôi rất vui được làm người tu và có thể giúp đỡ bản thân cũng như người khác. Giờ tôi hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Tôi không nghĩ về tương lai, tôi sống trong hiện tại. Tôi tin rằng nếu như quý vị làm những việc tốt, quý vị sẽ đạt được kết quả tốt. Có lần hoàng hậu Thái Lan nói rằng, chúng ta cần phải ban phát hạnh phúc cho người khác. Nếu quý vị hạnh phúc, quý vị sẽ giúp đỡ người khác; vậy là họ đã được san sẻ hạnh phúc với quý vị. Chúng ta phải giúp đỡ lẫn nhau.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/06/2022(Xem: 10468)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
01/02/2022(Xem: 6862)
Với sự xuất hiện của virus SARS-CoV2 ở Vũ Hán - Trung quốc cuối năm 2019, và tiếp theo sau là sự lây lan rộng khắp thành một đại dịch toàn cầu, các tổ chức Phật giáo đã ra tay hành động khắp nơi trên thế giới. Đáp ứng của Phật giáo rất đa dạng, phản ảnh sự khác biệt giữa các tông phái và các nền văn hóa, tuy nhiên họ đã hội tụ quanh những chủ đề chung theo những tiền lệ đã được ghi sâu trong lịch sử. Một ví dụ về sáng kiến gần đây là dự án “ Làm Phẳng Đường Cong” do Hội Từ Tế ( Tzu Chi Foundation ) Chi Nhánh Hoa Kỳ công bố - đây là một Tổ chức nhân đạo Phật giáo khổng lồ đặt trụ sở trung ương tại Đài-loan, có trên 10 triệu hội viên và 45 chi nhánh khắp thế giới. Trong một thông cáo báo chí vào đầu tháng 4 , Hội Từ Tế Hoa Kỳ tuyên bố rằng họ sẽ phân phối hằng triệu khẩu trang và dụng cụ y tế cho các nhân viên y tế làm việc ở tuyến đầu, và khởi động một chương trình hỗ trợ cho những người chịu tác động của đại dịch về mặt kinh tế xã hội. Những sáng kiến ấy ở Hoa kỳ bổ sung cho
01/02/2022(Xem: 37244)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
17/11/2021(Xem: 26176)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 22037)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 15555)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 15561)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 18215)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
24/06/2021(Xem: 5145)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 21859)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]