Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02. Nữ Cư Sĩ Giảng Sư Thái Achaan Ranjuan

26/01/201204:17(Xem: 7521)
02. Nữ Cư Sĩ Giảng Sư Thái Achaan Ranjuan

PHẬT GIÁO & NỮ GIỚI

NỮ GIỚI & PHẬT GIÁO
(Truyền Thống, Cải Cách, Phục Hồi)
Biên soạn: Ellison Banks Findly
Chuyển ngữ: Diệu Liên Lý Thu Linh, Diệu Ngộ Mỹ Thanh, Giác Nghiêm Nguyễn Tấn Nam

Phần II
CÁC VỊ THẦY, GIÁO PHÁP, VÀ SỰ TRUYỀN THỪA

Nữ Cư Sĩ Giảng Sư Thái ACHAAN RANJUAN
Martine Bachelor chuyển ngữ tiếng Anh


Achaan Ranjuan là một phụ nữ Thái, xuất gia làm tu nữ khá muộn màng nhưng đã đắc thiền rất nhanh chóng. Bà đã được chính Thầy của mình, lão sư Buddhadasa, khuyến khích dạy thiền từ rất sớm. Khi tôi được gặp bà, bà đang hướng dẫn khóa tu thiền cho hàng trăm người, nhưng bà vẫn dành tất cả thời gian cho tôi như thể bà không có việc chi khác để làm. Mắt bà long lanh tỏa đầy vẻ từ bi, dường như bà là biểu tượng của lòng từ bi bác ái. Vị thế của bà không được rõ ràng: bà cạo tóc nhưng mặc y màu trắng và đen, thay vì toàn trắng như các ‘tu nữ’ người Thái khác. Dầu bà bảo rằng mình là nữ cư sĩ, nhưng đối với tôi rõ ràng bà là một vị nữ tu.

*

Mười lăm năm trước, trong một kỳ nghỉ cuối tuần, tôi đến miền Đông Bắc Thái Lan. Khi lái xe qua một làng quê, bạn tôi bảo rằng gần đây có một lâm tự viện rất hay. Tôi rất thích thăm viếng các tịnh thất, nên quyết định đến đó. Đường vào tu viện rất xấu, đầy bùn lầy, nên chúng tôi mất khá nhiều thời gian trước khi đến được nơi đó, nên đành ngủ lại qua đêm. Vị trụ trì già rất từ tốn và tử tế. Đêm đó ngài ban cho chúng tôi một thời Pháp, và trong khi lắng nghe ngài, tôi bỗng như bừng tỉnh. Tôi ngộ ra rằng một người Phật tử thuần thành phải tinh tấn tu tập để hiểu được trạng thái tâm của mình, nhất là tâm vọng tưởng. Tôi bắt đầu hành thiền để lắng đọng tâm. Sau đó tôi quán chiếu về các đặc tính của tam tướng: vô thường, khổ và vô ngã.

Tôi vẫn duy trì công việc giảng dạy trong trường đại học về ngành Khoa học Thư Viện. Sau năm năm hành thiền trong khi vẫn tiếp tục làm việc, tôi quyết định chọn thiền làm con đường đạo mà tôi phải đi theo. Tất cả những gì cần làm, tôi đã hoàn tất. Tôi đã hoàn thành bổn phận và trách nhiệm của người công dân trong xã hội. Tôi cảm thấy như được giải thoát, nên quyết định buông bỏ tất cả để tu tập dưới sự hướng dẫn của Ngài Achann Chah. Ngài là vị thầy đầu tiên của tôi, nhưng tôi không tu học với Ngài được lâu. Trong mùa hè an cư đầu tiên của tôi, ngài Achaan Chah ngã bệnh, bị bại liệt, không thể dạy các đệ tử nữa. Đó là mười một năm về trước, khi tôi còn cảm thấy rất non nớt trên con đường tu, nên tôi quyết định đi tìm một vị thầy khác. Một số đạo hữu giới thiệu tôi đến chùa Suan Mok để đảnh lễ Hòa thượng Buddhadasa. Tôi quyết định thử tu theo phương pháp của ngài một thời gian. Phương pháp này rất khác với những gì tôi đã học, nên tôi muốn biết chắc rằng nó có thích hợp với tôi hay không. Và tôi thấy phương pháp này rất thích hợp nên tôi trụ lại. Tôi thích tính chất thực dụng của nó.

Hòa thượng Buddhadasa nhấn mạnh rằng tất cả mọi người đều phải ưa thích việc mình làm. Chúng ta cần phải thực hành Pháp trong tất cả mọi việc mình làm. Quan trọng nhất là chúng ta phải luôn chánh niệm. Chúng ta cần phải phát triển định và tuệ trong việc tu tập, thay vì chỉ ngồi im lặng nhắm mắt. Ngài nhắc nhở chúng tôi phải tu tập ngay cả trong những lúc khó khăn. Hòa thượng Buddhadasa khuyến khích tôi dạy thiền. Năm đầu tiên Ngài để tôi được tu tập một mình. Khi tôi có điều thắc mắc, tôi sẽ đến trình Ngài và Ngài luôn sẵn lòng giải thích bất cứ điều gì. Sau một năm, Ngài gửi một số sinh viên, giáo sư và cư sĩ đến học Pháp với tôi. Lần đó Ngài viết xuống rằng tôi chỉ cần dạy họ những điều tôi biết. Tôi thưa với Ngài rằng tôi không biết chi nhiều, nhưng Ngài khuyên rằng tôi chỉ cần dạy họ những gì tôi biết, không cần gì hơn thế nữa.

Tôi là một nữ cư sĩ (upasika) nhưng tôi thệ nguyện giữ tám giới như các sa-di. Điều khác biệt duy nhất là chiếc váy đen mà tôi thường mặc với áo trắng. Vậy tại sao tôi không xuất gia làm sa-di? Khi tôi còn đi làm và bắt đầu tìm hiểu Pháp, tôi đã đến thọ giáo với một bà thầy mù vì bị đục thủy tinh thể, và tôi thấy bà vận y phục giống như thế. Bà không chính thức là một tu nữ, nhưng hành vi của bà, cách bà tu tập, cũng giống như một vị nữ tu thuần thành. Lúc đó tôi nghĩ rằng nếu tôi đi theo con đường của bà, tôi cũng sẽ ăn vận giống như bà. Tôi không quan tâm về hình dáng hay y áo bên ngoài. Trong tâm mình có giữ được như người xuất gia mới là điều quan trọng. Làm như thế thật tiện lợi. Tôi chỉ cần cạo tóc, rồi mặc y áo trắng và đen (mae chis thì vận toàn y trắng).

Tôi không có cảm giác gì đặc biệt về vai trò của các nữ tu sĩ ở Thái Lan. Nhiều nữ phóng viên Tây phương và Thái Lan thường hỏi tôi về điều này. Khi chúng tôi đã chọn cuộc sống này, chúng tôi muốn luyện tập để tâm bớt tham, sân và si. Nếu chúng tôi đòi hỏi điều này, điều nọ, thì chúng tôi chỉ làm tăng thêm tâm si mê của mình. Đó không phải là mục đích của việc hành Pháp. Nếu tất cả mọi người đều cố gắng vun trồng chánh niệm và diệt bỏ mọi ô nhiễm, thì sẽ không còn có vấn đề gì. Chúng ta có thể sống chung hòa bình. Câu trả lời của tôi thường không làm cho những người phỏng vấn hài lòng.

Có thể cũng đúng ở một mức độ nào đó, ở Thái Lan khi làm người xuất gia, người nữ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn người nam về tài chánh cũng như giáo dục. Vấn đề có thể bắt nguồn từ cách truyền dạy Phật Pháp ở đất nước này. Nếu cốt lõi của Phật giáo được dạy một cách trực tiếp, thì không có sự khác biệt giữa tăng và ni, không có chuyện kẻ cao, người thấp. Một số phụ nữ có thể nghĩ rằng họ có ít cơ hội hơn vì họ mong được một điều gì đó trong cuộc sống nơi tu viện, nhưng nếu họ đến đây mà không có lòng hoài vọng và chỉ chú tâm hành thiền, thì tôi nghĩ là sẽ không có bất cứ vấn đề gì.

Trong tu viện của ngài Achaan Chah có hơn sáu mươi nữ tu. Không phải ai cũng là người có học, nhưng ngài đã cố gắng để giúp họ vì ngài rất thông cảm với những người kém may mắn trong xã hội. Ngài muốn giúp họ được ở trong tu viện hành thiền và học tự giúp bản thân họ bằng cách phát triển một trái tim thuần khiết và đem lại lợi ích cho mọi người.

Đối với tôi, một upàsika cũng là một người xuất gia. Tôi không thấy có gì khác biệt giữa một upàsika và một tu nữ. Làm người xuất gia giúp tôi giữ được chánh niệm. Xa rời nơi tôi gọi là nhà, xa rời những người tôi gọi là thân quyến, xa rời nơi làm việc hay cuộc sống thế tục, tôi có được nhiều thời gian tự do để tu tập và học Pháp.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/06/2022(Xem: 10467)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
01/02/2022(Xem: 6862)
Với sự xuất hiện của virus SARS-CoV2 ở Vũ Hán - Trung quốc cuối năm 2019, và tiếp theo sau là sự lây lan rộng khắp thành một đại dịch toàn cầu, các tổ chức Phật giáo đã ra tay hành động khắp nơi trên thế giới. Đáp ứng của Phật giáo rất đa dạng, phản ảnh sự khác biệt giữa các tông phái và các nền văn hóa, tuy nhiên họ đã hội tụ quanh những chủ đề chung theo những tiền lệ đã được ghi sâu trong lịch sử. Một ví dụ về sáng kiến gần đây là dự án “ Làm Phẳng Đường Cong” do Hội Từ Tế ( Tzu Chi Foundation ) Chi Nhánh Hoa Kỳ công bố - đây là một Tổ chức nhân đạo Phật giáo khổng lồ đặt trụ sở trung ương tại Đài-loan, có trên 10 triệu hội viên và 45 chi nhánh khắp thế giới. Trong một thông cáo báo chí vào đầu tháng 4 , Hội Từ Tế Hoa Kỳ tuyên bố rằng họ sẽ phân phối hằng triệu khẩu trang và dụng cụ y tế cho các nhân viên y tế làm việc ở tuyến đầu, và khởi động một chương trình hỗ trợ cho những người chịu tác động của đại dịch về mặt kinh tế xã hội. Những sáng kiến ấy ở Hoa kỳ bổ sung cho
01/02/2022(Xem: 37244)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
17/11/2021(Xem: 26176)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 22037)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 15553)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 15561)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 18215)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
24/06/2021(Xem: 5145)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 21858)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]