Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Truyện Ni Giới Việt Nam.

08/04/201319:57(Xem: 3321)
Truyện Ni Giới Việt Nam.


TRUYỆN NI GIỚI CỦA NƯỚC TA 

TỐ AM NGUYỄN TOẠI

---o0o---

nước ta, khi còn là đất Giao Chỉ thuộc nhà Hán, nhà Ngô, thế kỷ thứ 2 Tây lịch, đã có các Tăng người Ấn Độ sang ở thành Luy Lâu (huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), các Sa-môn này lập am thờ Phật ở chung, đấy là các Tăng đầu tiên của Phật Giáo nước ta. Số Tăng chắc đã khá đông khi Mâu Tử viết sách Tri hoặc Luận tại Luy Lâi vào cuối thế kỷ thứ 2. Còn đến bao giờ mới có nữ giới tu đạo Phật, thành Sa-di-ni, Tỷ-khưu-ni, ta không biết được vì không có sách chép.

Phải đợi đến đời nhà Trần, khi sách Thiền Uyển Tập Anh được viết ra (khoảng thế kỷ 13) mới thấy truyện một Ni sư, ta không biết được vì không có sách chép.

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép vào năm Quý T? niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ tư đời vua Lý Nhân Tôn (Tây lịch 1113), mùa hạ tháng sáu : Phu nhân chức Châu Mục Châu Chân Đăng là công chúa họ Lý mất. Phu nhân tên Ngọc Kiều, em gái lớn Phụng Càn Vương, vua Thánh Tôn nuôi ở trong cung, lúc lớn, phong là công chúa, lấy Châu Mục Châu Chân Đăng họ Lê, ông này chết, tự thề ở góa, xuất gia làm Ni (sư nữ), đến nay mất, tuổi 72; vua Thần Tôn tôn làm "Ni sư". Thế là Ni sư sinh năm Tân T? đời vua Thái Tôn, niên hiệu Càn Phù Hữu Đạo năm thứ ba (Tây lịch 1041). Vua Thánh Tôn làm vua từ năm 1054 đến năm 1072. Vua Thánh Tôn làm vua từ năm 1054 đến năm 1072, nuôi Ni sư, phong làm công chúa, gả cho Châu Mục họ Lê, Ni sư mất trong đời vua Nhân Tôn và đến đời vua Thần Tôn (1128-1138), được truy phong là Ni sư. Công chúa xuất gia, thụ giới Bồ Tát với Thiền sư Chân Không. Cứ sách Thiền Uyển Tập Anh chép thì Thiền sư Chân Không, quê ở hương Phù Đổng, huyện Tiên Du (hương Phù Đổng sau là xã Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh), tu ở chùa Chúc Thánh, núi Phả Lại, núi này thuộc huyện Quế Dương tỉnh Bắc Ninh, chùa ở trên núi trông xuống sông Lục Đầu. Chân Không cho công chía về trụ trì ở Ni viện Hương Hải, thuộc hương Phù Đổng. Nay chùa Hương Hải vẫn còn ở xã Phù Đổng, vậy chùa này đã có từ ngót một nghìn năm nay. Cũng nên biết rằng ở xã này, hiện còn chùa Kiến Sơ, chùa này được lập vào khoảng năm 800, triều nhà Đường.

Lý công chúa được pháp danh là Diệu Nhân, là đệ tử của Thiền sư Chân Không nên thuộc Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi, Thiền phái nàu do Thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi, người miền Nam Thiên Trúc (Ấn Độ). lập ra tại chùa Pháp Vân (chùa Dâu), chùa này ở xã Khương Tự, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, theo giáo chỉ của Thiền phái đệ tam tổ Tăng Sán bên Trung Quốc. Ni sư Diệu Nhân được chép truyện vào sách Thiền Uyển Tập Anh, trong truyện có bài kệ lúc thị tịch : "Sinh, lão, bệnh, tử cổ thường nhiên, dục cầu xuất ly, giải phọc thiêm triền, mê chi cầu Phật, hoặc chi cầu Thiền, Thiền Phật bất cầu, uổng khẩu vô ngôn" nghĩa là : Sinh lão bệnh tử, lẽ thường tự nhiên, muốn cầu thoát ly, càng thêm trói buộc, mê mới cầu cầu thoát lu, càng thêm trói buộc, mê mới cầu Phật, hoặc mới cầu Thiền, chẳng cầu Thiền Phật, mỉm miệng ngồi yên (bản dịch Ngô Đức Thọ). Chùa Hương Hải cho đến nay vẫn do sư nữ trị trì. Nếu Ni viện Hương Hải xuất hiện ít lâu sau chùa Kiến Sơ, ở cùng làng, thì Ni viện là nơi danh lam cổ nhất trong các Ni viện là nơi danh lam cổ nhất trong các Ni viện ở nước ta.

Kể đến các Ni viện cổ, nên biết đến chùa Long Cảm, ở trên đỉnh núi Ốc (Ốc Sơn) trong trang Chương Các, huyện Tống Sơ phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, gần ga Đò lèn ngày nay. Vua Lý Thái Tổ, năm Thiên Thuận thứ 11 (Canh Thân 1020) đi đánh Chiêm Thành (đất Quang Binh Ngày nay), đóng quân trên núi này. Thần núi báo mộng cho vua rằng sẽ phù hộ trong trận chiến. Thắng trận, vua lập chùa Long Cảm (Long là rồng, là vua, Cảm là cảm động, biết ơn), chùa này để Ni cô trụ trì. Vua Trần Thái Tôn từng đóng quân tại núi này và cũng được thần núi báo mộng. Triều Nguyễn, vua Thiệu Trị khi ngự giá ra Bắc thụ phong, có vào thăm chùa (năm Quý Mão - 1843), cho khắc bia ghi việc và cấp cho chùa một cái chuông. Chùa này không rõ có còn không vì sau năm 1946, các chùa ở tỉnh Thanh Hóa bị hủy nhiều.

Ngay ở tỉnh Hà Nội, cũng có mấy Ni viện cổ, mà viện cổ nhất thì không thua gì viện Hương Hải.

Ở huyện Thanh Trì, tổng Nam Phù Liệt, thuộc các xã Đông Phù Liệt, Đông Trạch, có chùa Long Hưng (Long nghĩa là lớn). Tục truyền triềyu Lý có hai công chúa, đi tu ở chùa này, vua sai đốt chùa để gọi các ông chúa về, các công chúa lại trốn sang chùa khác. Vua sửa chùa đã bị đốt để hai công chúa đến ở tu hành, vì vua thấy có thật tâm mộ đạo, cấp cho chùa 200 mẫu ruộng. Hai công chúa lấy một mẫu đất thuộc xã Ninh Xá cùng huyện, đặt làm huyệt mộ. Đời vua Lý Nhân Tôn, niên hiệu Hội Phong thứ tư (Ất Hợi 1095), hai công chúa cùng hai thị tỳ xuống thuyệt rồi "hỏa" cả, đó là rằm tháng ba. Hàng năm, cứ độ tháng hai, có đám mây từ phía Đông kéo đến, mưa to, sấm nổ, khi tạnh thì thấy cỏ ở mộ rạp cả xuống, vết tích như có rồng mới bay xuống, dân vẽ tượng hai vị để thờ ở chùa, biết rằng các vị anh linh.

Ở ngay thành Thăng Long, có một Ni viện, tồn tại đến nay, đó là chùa Ngọc Hồ, thường gọi là chùa Bà Ngô, ở phố Nguyễn Khuyến ngày nay, trước là phố Sinh Từ. Cứ sách "La Thành Cổ Tích Vịnh" thì chùa này xây từ năm Mậu Dần (1218) niên hiệu Kiến Gia đời vua Lý Huệ Tôn. Chùa xây trên gò, dưới gò có giếng nước, trước tam quan có mô đất, hình hồ đựng rượu, nên đặt tên là chùa Ngọc Hồ. Đời Trần, có tên là chùa Tiên Phúc. Cứ sách "Bích Câu Kỳ Ngộ Ký" thì vua Lê Thánh Tôn có gặp tiên ở chùa, rồi chùa có xây lầu Vọng Tiên ở cửa Nam thành Thăng Longt, gần chùa này. Từ nhà Mạc về sau, có tên là chùa Bà Ngô. Gọi thế là vì lúc ấy, có bà người Việt, chồng là người Trung Quốc (khi ấy ta gọi là nước Ngô), nên gọi là bà Ngô, có công đức lớn với chùa, tên bà Ngô còn đến nay. Có thuyết cho rằng mãi triều Lê Thánh Tôn mới xây chùa này, nhưng nếu thuyết này đúng thì khó hợp với việc Lê Thánh Tôn gặp tiên ở chùa. Chùa thờ Phật ở chính giữa, thờ vua Lê Thánh Tôn cùng các hoàng hậu, các hoàng tử, hoàng tử, ở đền ngoài, xây bên chùa và thờ Thủy cung Đại đế, Thiên Tiên Thánh Mẫu (công chúa Liễu Hạnh) ở đền trong. Thế là ở chùa sư nữ này, thờ cả Phật, cả Tiên, cả Hoàng đế, hiện tượng này đáng để ý trong nền tín ngưỡng của dân ta.

Cũng tại thành phố Hà Nội, có chùa Viên Minh, chùa sư nữ cạnh đền Hai Bà, có phố Đồng Nhân. Gọi tên thế nhưng chỗ này không phải là đất xã Đồng Nhân huyện Thanh Trì mà là đất thôn Hương Viên huyện Thọ Xương. Đền ở xã Đồng Nhân, gần sông, đất lở nên phải đem đền xây vào thôn Hương Viên, xa sông, cạnh đền xây chùa, do đền và chùa Hai Bà. Xã Đồng Nhân giao việc trông nom đền cho vị Sư bà trụ trì chùa Viên Minh; cho đến năm 1955 vẫn như thế. Cứ theo bia của chùa, viết năm Bảo Đại Nhâm Thân (1932) thì vị trụ trì chùa này là vị thứ sáu, sau năm vị Sư tổ, pháp danh các vị đều có chữ Đàm, như Đàm An...

Ở tỉnh Nam Định, xã Hổ Sơn, tổng Hổ sơn huyện Vụ Bản, có chùa tên là chùa Nộn Sơn, dựng từ đời nhà Trần. Đây là nơi trụ trì của Huyền Trân Công chúa. Công chúa sang Chiêm thành. tháng sáu năm Bính Ngọ (1306), lên thuyền về nước tháng 10 năm Đinh Mùi (1307), về đến nước tháng 8 năm Mậu Thân (1308), đến trụ trì tại chùa này. Khi mất công chúa được thờ trong chùa. Các vị tu trụ trì đều là sư nữ.

Ở Huế, có chùa Phúc Thành ở xã An Cựu, nơi trụ trì của bà Nguyễn Thị Ngọc Cầu, mẹ chúa Nguyễn Phúc Thuần, chúa bị nhà Tây Sơn giết, sau tôn là Duệ Tôn Hiếu Định Hoàng Đế. Khi chùa chạy vào Nam, bà Nguyễn Thị xuất gia, lập chùa Chúc Thanh, trụ trì ở đấy đến lúc chết, năm Gia Long thứ ba (Giáp Tý 1804), được hiệu là Thiệu Long giáo chủ, tặng phong là Tuệ Tĩnh Thánh Mẫu Nguyên Sư, nên chùa được gọi là chùa bà Nguyên Sư, tháp xây ở ngoà chùa. Chùa do các Ni trụ trì.

Trong Đại Nội, có chùa Hoành An, trong Ngự Uyển tại Tử Cấm Thánh, chùa nhỏ này là nơi các bà nội cung đến lễ Phật, Sa-di-ni ở đó đều là người có họ với hoàng gia.

Ở tỉnh Biên Hòa, phía Đông Nam huyện Long Thành, có núi, gọi là núi Bà Vãi, chữ Hán là Nữ Tăng Sơn, ở đây có am Vân Tĩnh của bà Lê Thị Lượng. Bà này sống trước triều Gia Long, góa chồng, xuất gia, lập am tu hành, nổi tiếng là đắc đạo. Am không còn, nhưng tên núi và tên người hãy còn. Đó là vài nơi tu viện do các Sa-di-ni trụ trì. Ở nước ta, từ trước tới nay, không thấy sách nào chép đến các chùa Sư nữ. Do đó, khó mà biết được tên họ các vị Ni trưởng, lai lịch của chùa, và pháp truyền thừa trong Ni giới. Mong rằng rồi sẽ tìm được nhiều tài liệu để nghiên cứu việc tu hành của các Ni thường đặt chữ đầu là đức Đàm, chắc là do tên Ma-ha-Ba-xà-ba-đề Cù-đàm-di (Prajapati Gausami), tên bà di mẫu của đức Thích Ca, hai chữ Cù-đàm, viết tắt còn chữ Đàm, bà di mẫu được Phật cho thụ giới.

Cứ bài nghiên cứu của ông Erik Zurcher, người Hà Lan viết năm 1988 về sách "Tỷ-khưu Ni Truyện", viết xong năm 517 Tây lịch, tác giả là Tăng Bảo Xướng, tu ở Kiến Nghiệp (nay là Nam Kinh) trong triều nhà Lương (502-556), thì số Tỷ-khưu ni và số Ni viện cũng đã có nhiều ở Trung Quốc đến lúc ấy, cả ở trung tâm miền Bắc la Lạc Dương và ở trung tâm miền Nam là Kiến Nghiệp. Ni viện xuất hiện trước hết ở Lạc Dương, rồi đến ở Kiến Nghiệp, vào khoảng giữa thế kỷ thứ tu, thời nhà Đông Tân. Có thể biết vài điều về Ni giới lúc ấy. Ở Lạc Dương, bốn vị Ni thuộc hai đời truyền thừa, là con gái nhà quan, cùng là vợ ông quan, không phải là dân thường. Vị Ni đầu tiên được Tăng người nước Cachemire đất Ấn Độ... độ cho làm Ni, cùng một lượt với 24 người nữ khác. Khi có Ni viện thành lập ở Kiến Nghiệp thì thấy rằng các Ni viện thành lập Kiến Nghiệp thi thấy các Ni viện đầu tiên đều được dựng lên, có sự bảo trợ của vị quyền thần ở trong triều nhà Đông Tấn. Qua triều nhà Tống (Lưu Dụ), vào năm 429, khi ở Kiến Nghiệp đã có hàng trăm Tỷ-khưu Ni, thì có một phái đoàn mấy chục Ni người Tích Lan, đi đến Quảng Châu bằng đường thủy. Vài năm sau, lại có một đoàn 11 vị Ni cũng từ Tích Lan sang. Tất cả các vị Ni người Tích Lan đều lên tu ở các Ni viện tại kinh đô Kiến Nghiệp, học Hán ngữ, Hán văn, để chỉ dẫn các Ni người Hán trong việc tu hành. Cử tác giả Zurcher nhận xét thì do sự giảng huấn của các Ni Tích Lan, từ bà dì của đức Phật, vậy là một phép truyền thừa chân chính.

Sách Tỷ-khưu có truyện của 65 vị Ni, thì trong 55 truyện, có đủ tên, gia thế. Cứ xem các họ ấy thì các vị Ni đều là con nhà quan, nhưng không phải là con cháu của các nhà cửu tộc Hào Môn, giai cấp quý tộc bậc nhất thời ấy, mà cũng không phải là con nhà bình dân.

Là con nhà quan, đã học phép lễ giáo, các vị Ni khi xuất gia cũng hay gặp trở ngại: cha mẹ đã hứa gả chồng, cha mẹ ngăn cấm.

Vào ở Ni viện, các Ni cũng có một cuộc sinh hoạt an nhàn: không có đi khất thực, ở viện có nhà bếp, nhà trai, làm bếp có vài Sa-di Ni, có cả thị kỳ. Xem ra Ni viện có ruộng, đất để thu hoa lợi; ruộng, đất do gia đình các Ni cấp cho, do các nhà quyền quý hay do vua ân thưởng. Các vị Ni được hưởng nhiều tài sản thì dùng tài sản đó để xây dựng thêm nhà trong Ni viện, có khi lập thêm Ni viện mới. Có vị Ni được một công chúa cấp đất, xây Ni viện mới, đem Ni viện cũ trao cho một vị Tăng. Các Ni dùng tài sản để tô tượng bằng đồng hay bằng đá, các bức tượng lớn, nhiều tượng còn đến nay: xem chữ khắc ở chân tượng, ta biết được tượng do vị Ni tên gì, đời nào đã cho tạc nên. Tìm ở Đôn Hoàng, trong các động, còn thấy các pho kinh, do các vị Ni cúng, pho kinh có khi gồm hàng trăm cuốn giấy, viết tay. Các Ni cũng tổ chức các "giảng hội" tụ tập Tăng-già để thuyết pháp, các Tăng, Ni, đến dự đều được tiếp đãi. Ngoài ra, các Ni cũng phát chẩn cho những người tàn tật, hay gặp nạn đói kém.

Các Ni, thường xuất thân từ các gia đình quyền quý nên đa số là người biết chữ, người có quyền quý nên đa số là người biết chữ, người có học. Chẳng thế mà cứ truyện chép thì có vị tuổi đã cao, mà mỗi ngày tụng thuộc lòng bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa, có vị tụng thuộc lòng trong năm ngày bộ kinh, tính ra có đến 45 vạn chữ. Thuộc nhiều kinh, hiểu nhiều kinh, các vị ấy cũng rất thông hiểu trong việc thuyết pháp. Có điều là truyện không nói đến có vị Ni vào đã tham dự vào việc dịch kinh, đã viết sách để giảng nghĩa các kinh điển.

Cứ truyện kể thì nhiều vị Ni, do Thiền quán mà trông thấy hiện ra các vị Phật, các vị Bồ Tát; có vị trước khi tịch, kể rằng mình đã trông thấy đường để đi đến Tịnh thổ của A Di Đà Phật. Khi tu hành, nhiều vị theo phép tu khổ hạnh, và khi tịch, có vị dùng phép tự thiêu.

Đại lược thì Ni giới bên Trung Quốc sinh hoạt và tu hành vào thế kỷ thứ năm như sách Tỷ-Khưu Ni truyện đã kể. Ni giới cũng rất đông: vào niên hiệu Khai Nguyên nhà Đường (713-741). Ở nước ta, có lẽ không có sự hiểm kê bao giờ, nhưng ta cũng có thể đoán là số ấy không nhỏ. Vua Thái Tổ nhà Lê bắt các Tăng đi thi, vua Thái Tổ nhà Tây Sơn bắt giảm số tăng ở trong nước, các lệnh đó tác động đến số Ni như thế nào, sử ta không chép. Nay chỉ mong còn tìm thấy ở các chùa các tài liệu may còn sót lại, thì mới có thể ước đoán một vài điều.

Gia Định mùa Xuân Đinh Sửu, 1997

Source : Tạp Chí GIAO ĐIỂM số 28, Winter 97.
Địa chỉ liên lạc : P.O. Box 2188, Garden Grove, California 92842
Phone : (213) 222-4444, Fax : (714) 537-7255


-- o0o --


Vi tính : Diệu Anh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2013(Xem: 22022)
Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với câu chuyện đời của Đức Phật. Chúng ta biết rằng thái tử Siddhattha đã rời bỏ cung điện lộng lẫy của vua cha, để bắt đầu cuộc sống không nhà của người lữ hành lang thang đi tìm con đường tâm linh, và sau nhiều năm tu hành tinh tấn, Ngài đã đạt được giác ngộ khi đang nhập định dưới gốc cây bồ đề. Sau khi xả thiền, Đức Phật đã đi đến thành phố Benares, giờ được gọi là Varanasi. Ở đó, trong Vườn Nai, lần đầu tiên Ngài thuyết pháp về những gì Ngài đã khám phá về con đường đi đến hạnh phúc toàn vẹn. Lời dạy của Đức Phật rất đơn giản nhưng sâu sắc.
08/12/2013(Xem: 26081)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu. Tuy nhiên, thân thể ta là một hợp thể rất mầu nhiệm, nó chứa đựng cả tinh hà vũ trụ bao la. Ta thấy được tất cả các thế hệ tổ tiên, con cháu của ta đều có mặt trong thân ta. Ta cảm nhận sự có mặt của họ trong từng tế bào của cơ thể. Họ luôn có mặt trong ta và chung quanh ta. Họ cũng như các yếu tố khác đã kết hợp lại để làm nên sự sống của ta. Ta có thể tiếp xúc với những yếu tố như đất, nước, lửa và không khí - bốn đại trong ta và ngoài ta. Ta thấy ta như một con sóng trên mặt đại dương. Con sóng này được hình thành bởi các con sóng khác.
03/12/2013(Xem: 52316)
Người ta thường nói :"Ăn cơm có canh, tu hành có bạn". Đối với tôi, câu nói này thật là quá đúng. Ngày nhỏ chưa biết gì nhưng từ khi làm Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử tôi đã thấy ích lợi của một Tăng thân. Chúng tôi thường tập trung thành từng nhóm 5,7 người để cùng nhau tu học. Giai đoạn khó khăn nhất là sau 75 ở quê nhà. Vào khoảng 1985, 86 các anh lớn của chúng tôi muốn đưa ra một chương trình tu học cho các Huynh Trưởng trong Ban Hướng Dẫn Tỉnh và những Htr có cấp nên đã tạo ra một lớp học Phật pháp cho các Htr ở Sàigòn và các tỉnh miền Nam. Nói là "lớp học" nhưng các Chúng tự học với nhau, có gì không hiểu thì hỏi quý Thầy, các Anh và kinh sách cũng tự đi tìm lấy mà học. Theo qui định của các Anh, Sàigòn có 1 Chúng và mỗi tỉnh có 1 Chúng. Chúng tu học của chúng tôi (Sàigòn) có tên là Chúng Cổ Pháp và phải thanh toán xong các bộ kinh sau đây trong thời gian tối đa là 3 năm:
25/11/2013(Xem: 16802)
Nhìn vào tín ngưỡng Phật giáo nhiều người thường thắc mắc tại sao lại có nhiều "thứ" đến thế! Thật vậy Phật giáo có rất nhiều học phái, tông phái, chi phái..., một số đã mai một, thế nhưng một số vẫn còn đang phát triển và đồng thời cũng có nhiều chuyển hướng mới đang được hình thành. Đối với một người tu tập Phật giáo thì sự kiện ấy thật hết sức tự nhiên: tất cả mọi hiện tượng trong thế giới đều chuyển động, sinh sôi nẩy nở và biến đổi không ngừng. Nếu nhìn vào các tín ngưỡng khác thì ta cũng sẽ thấy cùng một hiện tượng như thế.
30/10/2013(Xem: 34726)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
26/10/2013(Xem: 53827)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
17/10/2013(Xem: 36251)
Tôi đọc kinh sách, nghe giảng và học hỏi, đồng thời rút kinh nghiệm trong những năm qua cùng các pháp hữu nghiên cứu và hoằng truyền chánh pháp, đặc biệt với đạo hữu Nguyên Phước. Thấy cần, rút ra một số nét cơ bản để chia xẻ cùng quý Phật tử thật dễ đọc, dễ hiểu, dễ thực hành trong niềm tin Phật pháp.
08/08/2013(Xem: 29853)
Năm 2010, tại Sài Gòn diễn ra đại hội “Con gái đức Phật” quy tụ hội chúng tỳ-khưu-ni và cận sự nữ Nam Bắc tông trên khắp thế giới về tham dự.Tôi không biết gì về nội dung cũng như hình thức đại hội ấy, nhưng cụm từ “Con gái đức Phật” tôi nghe sao nó dễ thương, bình dị và rất gần gũi với ngôn ngữ đời thường. Từ đó, tôi khởi tâm biên soạn một cuốn sách để giới thiệu về những vị Thánh Ni và những cận sự nữ có hành trạng đặc biệt và thù thắng thời đức Phật và đặt tên đầu sách là “Con gái đức Phật”.
09/04/2013(Xem: 5585)
Một trong những vai trò phục hưng xã hội và cách mạng văn hóa của Đức Phật, điều mà đôi khi bị các sử gia lãng quên, đó là giải phóng phụ nữ. Đức Phật phát huy một cuộc cách mạng trong tư tưởng và trong lối cảm xúc của đại chúng bằng cách công khai và can đảm tuyên bố rằng người nữ có thể đạt đến mức tiến bộ tuyệt đỉnh, thành tựu trí tuệ thâm sâu dẫn tới Niết bàn.
09/04/2013(Xem: 5642)
Hai truyền thống của Nam và Bắc truyền đều thừa nhận rằng, vào thời hoàng kim Phật giáo, mười ba năm đầu trong Tăng đoàn không có giới luật, nhưng sau đó sự lớn mạnh của Tăng đoàn, sự khác biệt về nhận thức nên đức Phật đã chế ra giới luật để “phòng hộ các căn” nhằm giúp cho mỗi thành viên trong Tăng đoàn được thanh tịnh và giả thoát. Thiết nghĩ, Bát kỉnh pháp cũng không ngoài những thiện ý đó!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567