Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Truyện Ni Giới Việt Nam.

08/04/201319:57(Xem: 3630)
Truyện Ni Giới Việt Nam.


TRUYỆN NI GIỚI CỦA NƯỚC TA 

TỐ AM NGUYỄN TOẠI

---o0o---

nước ta, khi còn là đất Giao Chỉ thuộc nhà Hán, nhà Ngô, thế kỷ thứ 2 Tây lịch, đã có các Tăng người Ấn Độ sang ở thành Luy Lâu (huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), các Sa-môn này lập am thờ Phật ở chung, đấy là các Tăng đầu tiên của Phật Giáo nước ta. Số Tăng chắc đã khá đông khi Mâu Tử viết sách Tri hoặc Luận tại Luy Lâi vào cuối thế kỷ thứ 2. Còn đến bao giờ mới có nữ giới tu đạo Phật, thành Sa-di-ni, Tỷ-khưu-ni, ta không biết được vì không có sách chép.

Phải đợi đến đời nhà Trần, khi sách Thiền Uyển Tập Anh được viết ra (khoảng thế kỷ 13) mới thấy truyện một Ni sư, ta không biết được vì không có sách chép.

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép vào năm Quý T? niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ tư đời vua Lý Nhân Tôn (Tây lịch 1113), mùa hạ tháng sáu : Phu nhân chức Châu Mục Châu Chân Đăng là công chúa họ Lý mất. Phu nhân tên Ngọc Kiều, em gái lớn Phụng Càn Vương, vua Thánh Tôn nuôi ở trong cung, lúc lớn, phong là công chúa, lấy Châu Mục Châu Chân Đăng họ Lê, ông này chết, tự thề ở góa, xuất gia làm Ni (sư nữ), đến nay mất, tuổi 72; vua Thần Tôn tôn làm "Ni sư". Thế là Ni sư sinh năm Tân T? đời vua Thái Tôn, niên hiệu Càn Phù Hữu Đạo năm thứ ba (Tây lịch 1041). Vua Thánh Tôn làm vua từ năm 1054 đến năm 1072. Vua Thánh Tôn làm vua từ năm 1054 đến năm 1072, nuôi Ni sư, phong làm công chúa, gả cho Châu Mục họ Lê, Ni sư mất trong đời vua Nhân Tôn và đến đời vua Thần Tôn (1128-1138), được truy phong là Ni sư. Công chúa xuất gia, thụ giới Bồ Tát với Thiền sư Chân Không. Cứ sách Thiền Uyển Tập Anh chép thì Thiền sư Chân Không, quê ở hương Phù Đổng, huyện Tiên Du (hương Phù Đổng sau là xã Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh), tu ở chùa Chúc Thánh, núi Phả Lại, núi này thuộc huyện Quế Dương tỉnh Bắc Ninh, chùa ở trên núi trông xuống sông Lục Đầu. Chân Không cho công chía về trụ trì ở Ni viện Hương Hải, thuộc hương Phù Đổng. Nay chùa Hương Hải vẫn còn ở xã Phù Đổng, vậy chùa này đã có từ ngót một nghìn năm nay. Cũng nên biết rằng ở xã này, hiện còn chùa Kiến Sơ, chùa này được lập vào khoảng năm 800, triều nhà Đường.

Lý công chúa được pháp danh là Diệu Nhân, là đệ tử của Thiền sư Chân Không nên thuộc Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi, Thiền phái nàu do Thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi, người miền Nam Thiên Trúc (Ấn Độ). lập ra tại chùa Pháp Vân (chùa Dâu), chùa này ở xã Khương Tự, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, theo giáo chỉ của Thiền phái đệ tam tổ Tăng Sán bên Trung Quốc. Ni sư Diệu Nhân được chép truyện vào sách Thiền Uyển Tập Anh, trong truyện có bài kệ lúc thị tịch : "Sinh, lão, bệnh, tử cổ thường nhiên, dục cầu xuất ly, giải phọc thiêm triền, mê chi cầu Phật, hoặc chi cầu Thiền, Thiền Phật bất cầu, uổng khẩu vô ngôn" nghĩa là : Sinh lão bệnh tử, lẽ thường tự nhiên, muốn cầu thoát ly, càng thêm trói buộc, mê mới cầu cầu thoát lu, càng thêm trói buộc, mê mới cầu Phật, hoặc mới cầu Thiền, chẳng cầu Thiền Phật, mỉm miệng ngồi yên (bản dịch Ngô Đức Thọ). Chùa Hương Hải cho đến nay vẫn do sư nữ trị trì. Nếu Ni viện Hương Hải xuất hiện ít lâu sau chùa Kiến Sơ, ở cùng làng, thì Ni viện là nơi danh lam cổ nhất trong các Ni viện là nơi danh lam cổ nhất trong các Ni viện ở nước ta.

Kể đến các Ni viện cổ, nên biết đến chùa Long Cảm, ở trên đỉnh núi Ốc (Ốc Sơn) trong trang Chương Các, huyện Tống Sơ phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, gần ga Đò lèn ngày nay. Vua Lý Thái Tổ, năm Thiên Thuận thứ 11 (Canh Thân 1020) đi đánh Chiêm Thành (đất Quang Binh Ngày nay), đóng quân trên núi này. Thần núi báo mộng cho vua rằng sẽ phù hộ trong trận chiến. Thắng trận, vua lập chùa Long Cảm (Long là rồng, là vua, Cảm là cảm động, biết ơn), chùa này để Ni cô trụ trì. Vua Trần Thái Tôn từng đóng quân tại núi này và cũng được thần núi báo mộng. Triều Nguyễn, vua Thiệu Trị khi ngự giá ra Bắc thụ phong, có vào thăm chùa (năm Quý Mão - 1843), cho khắc bia ghi việc và cấp cho chùa một cái chuông. Chùa này không rõ có còn không vì sau năm 1946, các chùa ở tỉnh Thanh Hóa bị hủy nhiều.

Ngay ở tỉnh Hà Nội, cũng có mấy Ni viện cổ, mà viện cổ nhất thì không thua gì viện Hương Hải.

Ở huyện Thanh Trì, tổng Nam Phù Liệt, thuộc các xã Đông Phù Liệt, Đông Trạch, có chùa Long Hưng (Long nghĩa là lớn). Tục truyền triềyu Lý có hai công chúa, đi tu ở chùa này, vua sai đốt chùa để gọi các ông chúa về, các công chúa lại trốn sang chùa khác. Vua sửa chùa đã bị đốt để hai công chúa đến ở tu hành, vì vua thấy có thật tâm mộ đạo, cấp cho chùa 200 mẫu ruộng. Hai công chúa lấy một mẫu đất thuộc xã Ninh Xá cùng huyện, đặt làm huyệt mộ. Đời vua Lý Nhân Tôn, niên hiệu Hội Phong thứ tư (Ất Hợi 1095), hai công chúa cùng hai thị tỳ xuống thuyệt rồi "hỏa" cả, đó là rằm tháng ba. Hàng năm, cứ độ tháng hai, có đám mây từ phía Đông kéo đến, mưa to, sấm nổ, khi tạnh thì thấy cỏ ở mộ rạp cả xuống, vết tích như có rồng mới bay xuống, dân vẽ tượng hai vị để thờ ở chùa, biết rằng các vị anh linh.

Ở ngay thành Thăng Long, có một Ni viện, tồn tại đến nay, đó là chùa Ngọc Hồ, thường gọi là chùa Bà Ngô, ở phố Nguyễn Khuyến ngày nay, trước là phố Sinh Từ. Cứ sách "La Thành Cổ Tích Vịnh" thì chùa này xây từ năm Mậu Dần (1218) niên hiệu Kiến Gia đời vua Lý Huệ Tôn. Chùa xây trên gò, dưới gò có giếng nước, trước tam quan có mô đất, hình hồ đựng rượu, nên đặt tên là chùa Ngọc Hồ. Đời Trần, có tên là chùa Tiên Phúc. Cứ sách "Bích Câu Kỳ Ngộ Ký" thì vua Lê Thánh Tôn có gặp tiên ở chùa, rồi chùa có xây lầu Vọng Tiên ở cửa Nam thành Thăng Longt, gần chùa này. Từ nhà Mạc về sau, có tên là chùa Bà Ngô. Gọi thế là vì lúc ấy, có bà người Việt, chồng là người Trung Quốc (khi ấy ta gọi là nước Ngô), nên gọi là bà Ngô, có công đức lớn với chùa, tên bà Ngô còn đến nay. Có thuyết cho rằng mãi triều Lê Thánh Tôn mới xây chùa này, nhưng nếu thuyết này đúng thì khó hợp với việc Lê Thánh Tôn gặp tiên ở chùa. Chùa thờ Phật ở chính giữa, thờ vua Lê Thánh Tôn cùng các hoàng hậu, các hoàng tử, hoàng tử, ở đền ngoài, xây bên chùa và thờ Thủy cung Đại đế, Thiên Tiên Thánh Mẫu (công chúa Liễu Hạnh) ở đền trong. Thế là ở chùa sư nữ này, thờ cả Phật, cả Tiên, cả Hoàng đế, hiện tượng này đáng để ý trong nền tín ngưỡng của dân ta.

Cũng tại thành phố Hà Nội, có chùa Viên Minh, chùa sư nữ cạnh đền Hai Bà, có phố Đồng Nhân. Gọi tên thế nhưng chỗ này không phải là đất xã Đồng Nhân huyện Thanh Trì mà là đất thôn Hương Viên huyện Thọ Xương. Đền ở xã Đồng Nhân, gần sông, đất lở nên phải đem đền xây vào thôn Hương Viên, xa sông, cạnh đền xây chùa, do đền và chùa Hai Bà. Xã Đồng Nhân giao việc trông nom đền cho vị Sư bà trụ trì chùa Viên Minh; cho đến năm 1955 vẫn như thế. Cứ theo bia của chùa, viết năm Bảo Đại Nhâm Thân (1932) thì vị trụ trì chùa này là vị thứ sáu, sau năm vị Sư tổ, pháp danh các vị đều có chữ Đàm, như Đàm An...

Ở tỉnh Nam Định, xã Hổ Sơn, tổng Hổ sơn huyện Vụ Bản, có chùa tên là chùa Nộn Sơn, dựng từ đời nhà Trần. Đây là nơi trụ trì của Huyền Trân Công chúa. Công chúa sang Chiêm thành. tháng sáu năm Bính Ngọ (1306), lên thuyền về nước tháng 10 năm Đinh Mùi (1307), về đến nước tháng 8 năm Mậu Thân (1308), đến trụ trì tại chùa này. Khi mất công chúa được thờ trong chùa. Các vị tu trụ trì đều là sư nữ.

Ở Huế, có chùa Phúc Thành ở xã An Cựu, nơi trụ trì của bà Nguyễn Thị Ngọc Cầu, mẹ chúa Nguyễn Phúc Thuần, chúa bị nhà Tây Sơn giết, sau tôn là Duệ Tôn Hiếu Định Hoàng Đế. Khi chùa chạy vào Nam, bà Nguyễn Thị xuất gia, lập chùa Chúc Thanh, trụ trì ở đấy đến lúc chết, năm Gia Long thứ ba (Giáp Tý 1804), được hiệu là Thiệu Long giáo chủ, tặng phong là Tuệ Tĩnh Thánh Mẫu Nguyên Sư, nên chùa được gọi là chùa bà Nguyên Sư, tháp xây ở ngoà chùa. Chùa do các Ni trụ trì.

Trong Đại Nội, có chùa Hoành An, trong Ngự Uyển tại Tử Cấm Thánh, chùa nhỏ này là nơi các bà nội cung đến lễ Phật, Sa-di-ni ở đó đều là người có họ với hoàng gia.

Ở tỉnh Biên Hòa, phía Đông Nam huyện Long Thành, có núi, gọi là núi Bà Vãi, chữ Hán là Nữ Tăng Sơn, ở đây có am Vân Tĩnh của bà Lê Thị Lượng. Bà này sống trước triều Gia Long, góa chồng, xuất gia, lập am tu hành, nổi tiếng là đắc đạo. Am không còn, nhưng tên núi và tên người hãy còn. Đó là vài nơi tu viện do các Sa-di-ni trụ trì. Ở nước ta, từ trước tới nay, không thấy sách nào chép đến các chùa Sư nữ. Do đó, khó mà biết được tên họ các vị Ni trưởng, lai lịch của chùa, và pháp truyền thừa trong Ni giới. Mong rằng rồi sẽ tìm được nhiều tài liệu để nghiên cứu việc tu hành của các Ni thường đặt chữ đầu là đức Đàm, chắc là do tên Ma-ha-Ba-xà-ba-đề Cù-đàm-di (Prajapati Gausami), tên bà di mẫu của đức Thích Ca, hai chữ Cù-đàm, viết tắt còn chữ Đàm, bà di mẫu được Phật cho thụ giới.

Cứ bài nghiên cứu của ông Erik Zurcher, người Hà Lan viết năm 1988 về sách "Tỷ-khưu Ni Truyện", viết xong năm 517 Tây lịch, tác giả là Tăng Bảo Xướng, tu ở Kiến Nghiệp (nay là Nam Kinh) trong triều nhà Lương (502-556), thì số Tỷ-khưu ni và số Ni viện cũng đã có nhiều ở Trung Quốc đến lúc ấy, cả ở trung tâm miền Bắc la Lạc Dương và ở trung tâm miền Nam là Kiến Nghiệp. Ni viện xuất hiện trước hết ở Lạc Dương, rồi đến ở Kiến Nghiệp, vào khoảng giữa thế kỷ thứ tu, thời nhà Đông Tân. Có thể biết vài điều về Ni giới lúc ấy. Ở Lạc Dương, bốn vị Ni thuộc hai đời truyền thừa, là con gái nhà quan, cùng là vợ ông quan, không phải là dân thường. Vị Ni đầu tiên được Tăng người nước Cachemire đất Ấn Độ... độ cho làm Ni, cùng một lượt với 24 người nữ khác. Khi có Ni viện thành lập ở Kiến Nghiệp thì thấy rằng các Ni viện thành lập Kiến Nghiệp thi thấy các Ni viện đầu tiên đều được dựng lên, có sự bảo trợ của vị quyền thần ở trong triều nhà Đông Tấn. Qua triều nhà Tống (Lưu Dụ), vào năm 429, khi ở Kiến Nghiệp đã có hàng trăm Tỷ-khưu Ni, thì có một phái đoàn mấy chục Ni người Tích Lan, đi đến Quảng Châu bằng đường thủy. Vài năm sau, lại có một đoàn 11 vị Ni cũng từ Tích Lan sang. Tất cả các vị Ni người Tích Lan đều lên tu ở các Ni viện tại kinh đô Kiến Nghiệp, học Hán ngữ, Hán văn, để chỉ dẫn các Ni người Hán trong việc tu hành. Cử tác giả Zurcher nhận xét thì do sự giảng huấn của các Ni Tích Lan, từ bà dì của đức Phật, vậy là một phép truyền thừa chân chính.

Sách Tỷ-khưu có truyện của 65 vị Ni, thì trong 55 truyện, có đủ tên, gia thế. Cứ xem các họ ấy thì các vị Ni đều là con nhà quan, nhưng không phải là con cháu của các nhà cửu tộc Hào Môn, giai cấp quý tộc bậc nhất thời ấy, mà cũng không phải là con nhà bình dân.

Là con nhà quan, đã học phép lễ giáo, các vị Ni khi xuất gia cũng hay gặp trở ngại: cha mẹ đã hứa gả chồng, cha mẹ ngăn cấm.

Vào ở Ni viện, các Ni cũng có một cuộc sinh hoạt an nhàn: không có đi khất thực, ở viện có nhà bếp, nhà trai, làm bếp có vài Sa-di Ni, có cả thị kỳ. Xem ra Ni viện có ruộng, đất để thu hoa lợi; ruộng, đất do gia đình các Ni cấp cho, do các nhà quyền quý hay do vua ân thưởng. Các vị Ni được hưởng nhiều tài sản thì dùng tài sản đó để xây dựng thêm nhà trong Ni viện, có khi lập thêm Ni viện mới. Có vị Ni được một công chúa cấp đất, xây Ni viện mới, đem Ni viện cũ trao cho một vị Tăng. Các Ni dùng tài sản để tô tượng bằng đồng hay bằng đá, các bức tượng lớn, nhiều tượng còn đến nay: xem chữ khắc ở chân tượng, ta biết được tượng do vị Ni tên gì, đời nào đã cho tạc nên. Tìm ở Đôn Hoàng, trong các động, còn thấy các pho kinh, do các vị Ni cúng, pho kinh có khi gồm hàng trăm cuốn giấy, viết tay. Các Ni cũng tổ chức các "giảng hội" tụ tập Tăng-già để thuyết pháp, các Tăng, Ni, đến dự đều được tiếp đãi. Ngoài ra, các Ni cũng phát chẩn cho những người tàn tật, hay gặp nạn đói kém.

Các Ni, thường xuất thân từ các gia đình quyền quý nên đa số là người biết chữ, người có quyền quý nên đa số là người biết chữ, người có học. Chẳng thế mà cứ truyện chép thì có vị tuổi đã cao, mà mỗi ngày tụng thuộc lòng bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa, có vị tụng thuộc lòng trong năm ngày bộ kinh, tính ra có đến 45 vạn chữ. Thuộc nhiều kinh, hiểu nhiều kinh, các vị ấy cũng rất thông hiểu trong việc thuyết pháp. Có điều là truyện không nói đến có vị Ni vào đã tham dự vào việc dịch kinh, đã viết sách để giảng nghĩa các kinh điển.

Cứ truyện kể thì nhiều vị Ni, do Thiền quán mà trông thấy hiện ra các vị Phật, các vị Bồ Tát; có vị trước khi tịch, kể rằng mình đã trông thấy đường để đi đến Tịnh thổ của A Di Đà Phật. Khi tu hành, nhiều vị theo phép tu khổ hạnh, và khi tịch, có vị dùng phép tự thiêu.

Đại lược thì Ni giới bên Trung Quốc sinh hoạt và tu hành vào thế kỷ thứ năm như sách Tỷ-Khưu Ni truyện đã kể. Ni giới cũng rất đông: vào niên hiệu Khai Nguyên nhà Đường (713-741). Ở nước ta, có lẽ không có sự hiểm kê bao giờ, nhưng ta cũng có thể đoán là số ấy không nhỏ. Vua Thái Tổ nhà Lê bắt các Tăng đi thi, vua Thái Tổ nhà Tây Sơn bắt giảm số tăng ở trong nước, các lệnh đó tác động đến số Ni như thế nào, sử ta không chép. Nay chỉ mong còn tìm thấy ở các chùa các tài liệu may còn sót lại, thì mới có thể ước đoán một vài điều.

Gia Định mùa Xuân Đinh Sửu, 1997

Source : Tạp Chí GIAO ĐIỂM số 28, Winter 97.
Địa chỉ liên lạc : P.O. Box 2188, Garden Grove, California 92842
Phone : (213) 222-4444, Fax : (714) 537-7255


-- o0o --


Vi tính : Diệu Anh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/06/2022(Xem: 10322)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
01/02/2022(Xem: 6806)
Với sự xuất hiện của virus SARS-CoV2 ở Vũ Hán - Trung quốc cuối năm 2019, và tiếp theo sau là sự lây lan rộng khắp thành một đại dịch toàn cầu, các tổ chức Phật giáo đã ra tay hành động khắp nơi trên thế giới. Đáp ứng của Phật giáo rất đa dạng, phản ảnh sự khác biệt giữa các tông phái và các nền văn hóa, tuy nhiên họ đã hội tụ quanh những chủ đề chung theo những tiền lệ đã được ghi sâu trong lịch sử. Một ví dụ về sáng kiến gần đây là dự án “ Làm Phẳng Đường Cong” do Hội Từ Tế ( Tzu Chi Foundation ) Chi Nhánh Hoa Kỳ công bố - đây là một Tổ chức nhân đạo Phật giáo khổng lồ đặt trụ sở trung ương tại Đài-loan, có trên 10 triệu hội viên và 45 chi nhánh khắp thế giới. Trong một thông cáo báo chí vào đầu tháng 4 , Hội Từ Tế Hoa Kỳ tuyên bố rằng họ sẽ phân phối hằng triệu khẩu trang và dụng cụ y tế cho các nhân viên y tế làm việc ở tuyến đầu, và khởi động một chương trình hỗ trợ cho những người chịu tác động của đại dịch về mặt kinh tế xã hội. Những sáng kiến ấy ở Hoa kỳ bổ sung cho
01/02/2022(Xem: 37062)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
17/11/2021(Xem: 25751)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 21711)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 15346)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 15405)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 18005)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
24/06/2021(Xem: 5120)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 21614)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]