Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nữ Giới Và Đạo Phật

15/12/201015:31(Xem: 13426)
Nữ Giới Và Đạo Phật

TỔNG QUAN

VỀ NHỮNG CON ĐƯỜNG
CỦA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG
Nguyên tác: A Survey Of The Paths Of Tibetan Buddhism
Tác giả: His Holiness Tenzin Gyatso 14th Dalai Lama of Tibet
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 19/06/2010
Làng Đậu hiệu đính

NữGiới Và Đạo Phật

Tôi nghĩ rằng cũng thích hợpđể nói vài điều nào đấy về phái nữvà nữ quyền trong Đạo Phật.

Trong trường hợp lối sống ở tự viện, mặc dù nam và nữ hành giả được bancho những cơ hội đồng đẳng trong những văn kiện Giới luật để tiếp nhận những thệnguyện tu sĩ, nhưng chúng ta thấy rằng những nam tăng sĩ đại giới được đối xửcao hơn trong nội dung của các đốitượng của sự tôn kính và ngưỡng mộ. Từ khía cạnh này, chúng ta có thể nói rằngcó một sự phân biệt nào đấy.

Cũng trong những văn kiện củahạ thừa [thừa thấp], chúng ta thấy rằng một vị Bồ-tát trên cấp độ cao nhất củacon đường, người chắc chắn đạt đến giác ngộ trong kiếp sống ấy, được kể là namgiới. Chúng ta thấy một sự giải thích tương tự trong kinh điển của Đại thừa, rằngmột vị Bồ-tát trên cấp độ cao nhất của con đường, người chắc chắn sẽ đạt đếngiác ngộ trong cùng kiếp sống ấy là một namnhân trường thọ trong thế giới Cực Lạc[1]. Điềunày cũng đúng trong ba lớp thấp của Mật thừa, nhưng sự diễn giải trong Mật thừaDu-già Tối Thượng lại khác.

Trong Mật thừa Du-già TốiThượng, ngay cả bước đầu tiên tiếp nhận truyền lực khai tâm chỉ có thể trên cănbản của sự hiện diện của một chúng hội đầy đủ nam và nữ bổn tôn. Những đức Phậtcủa năm bộ phải được hộ tống bởi đối ngẫu của các Ngài[2].

Vai trò của phái nữ được nhấn mạnh trong Mật thừa Du-già Tối Thượng.Khinh thị phái nữ là vi phạm một trong những thệ nguyện gốc của Mật thừa, mặcdù không thấy có sự xem thườngtương ứng được đề cập trong quan hệ đến những nam hành giả. Cũng thế, trong tutập thật sự của thiền quán trên những giác thểmạn-đà-la, giác thể được lưu tâm thường là phái nữ, như VajraYogini[3]vàNairat Maya[4].

Thêm nữa, Mật thừa nói về trọngđiểm trong tầng bậc hoàn tất, khi hành giả được khuyên bảo tìm mộtđối ngẫu, như một sự thúcđẩy cho sự thực chứng xa hơn của con đường. Trong những hoàn cảnh hợp nhất như vậy, nếu sự thực chứng của một tronghai người đối ngẫu là tiến bộ hơn, thì người đó có thể đem đến sự giải thoát,hay hiện thực hóa trạng thái kếtquả, cho cả hai hành giả.

Do thế, như được giải thích trong Mật thừa Du-già Tối Thượng, rằngmột hành giả có thể trở nên hoàn toàn giác ngộ trong kiếp sống này như một ngườinữ. Điều này là đúng và rõ ràng được tuyên bố trong những mật điển như Bí Mật Tập Hội.

Điểm căn bản là trong Mậtthừa và đặc biệt là trong Mật thừa Du-già Tối Thượng, điều mà các hành giả xúc tiếnlà một phương pháp khám phá và phát triển khả năng ẩn tàng trong chính họ. Đấylà, tâm nguyên sơ của tịnh quang và từ quan điểm ấy, vì nam và nữ giới sở hữu năng lực ấy một cách bình đẳng, nên không có sự khác biệt bất cứ điều gìtrong khả năng của họ để đạt đến trạng thái kết quả.

Do vậy, lập trường của Phậtgiáo trên câu hỏi về sự phân biệt giới tính là từ quanđiểm căn bản của Mật thừa Du-già Tối Thượng, không có sự phân biệt nào cả.



[1]Thế giới Cực Lạc (sukhāvatī) là cõian trụ của đức Phật A-di-đà trong Phật giáo Đại thừa. “Sukhavati”. Wikipedia. <http://en.wikipedia.org/wiki/Sukhavati>. Truy cập 19/08/2010.

[2]Năm Bộ Phật [Ngũ Trí Như Lai] chỉ đếncác yếu tố của Phật tính. Chúng là các yếu tố bẩm sinh cùa dòng tâm thức tươngtục. Năm bộ Phật và các đối ngẫu bao gồm:

  • ĐạiNhật Phật hay Tỳ-lô-giá-na Như Lai (Vairochana) đối ngẫu là Dhatvishvari hayTara Trắng.
  • BấtĐộng Phật hay A-súc-bệ Như Lai (Akshobhya) đối ngẫu là Buddhalochana
  • BảoSanh Như Lai (Ratnasambhava) đối ngẫu là Mamaki
  • A-di-đàNhư Lai (Amitabha) đối ngẫu là Pandaravasini
  • BấtKhông Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi) đối ngẫu là Samayatara.

“Five female buddhas”. Rigpa Shedra.

<http://www.rigpawiki.org/index.php?title=Five_female_buddhas>. Truy cập 19/08/2010.

Xem thêm về Ngũ Phật Trí:

Buddha-FamilyTraits (Buddha Families) and Aspects of Experience”. The Berzin Archives.<http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/advanced/tantra/level2_basic_theory/buddha_family_traits.html>. Truy cập 19/08/2010.

[3]Vajrayoginī (Tibetan: DorjeNaljorma) dịch nghĩa là "Kim Cương nữ du-già hành giả". Đây là một bổntôn thuộc Mật Điển Du-già Tối Thượng. Theo ngài Tsongkhapa, sự thực hành của nữdu-già này bao gồm các phương tiện ngăn ngừa cái chết thông thường, trạng tháitrung ấm, và tái sinh (qua việc chuyển hóa chúng vào các lộ trình để giác ngộ),và cho việc chuyển hóa hầu hết các trải nghiệm thế tục vào trong các lộ trìnhtu tập. Thực hành về Vajrayoginī nằm trong Mẫu Mật thừa thuộc về Mật thừaDu-già Tối Thượng.

"Vajrayogini". Wikipedia.<http://en.wikipedia.org/wiki/Vajrayogini>. Truy cập 07/09/2010.

[4]Nairãtmyã nghĩa là "Thiện nữ củatính Không" hay "người nữ đã giác ngộ vô ngã" là một Phật nữ cóthân hình màu xanh dương đậm của không gian vô lượng, phản ánh trí tuệ mở khôngbiên giới.

“Nairãtmyã". wikipedia.<http://en.wikipedia.org/wiki/Nairatmya>. Truy cập 07/09/2010.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 5055)
Bát Kính Pháp đã từng là đề tài cho nhiều nhà nghiên cứu Phật học Đông Tây quan tâm. Không phải một mình Sư Cô Thích Chiếu Huệ ở Đài Loan đề nghị bỏ Bát Kính Pháp mà từ trước và cho đến nay nhiều nhà nghiên cứu đã phân tích, đánh giá và soi sáng vấn đề dưới nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó ngầm ý kêu gọi nên xoá bỏ Bát Kính Pháp.
08/04/2013(Xem: 3614)
Ở nước ta, khi còn là đất Giao Chỉ thuộc nhà Hán, nhà Ngô, thế kỷ thứ 2 Tây lịch, đã có các Tăng người Ấn Độ sang ở thành Luy Lâu (huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), các Sa-môn này lập am thờ Phật ở chung, đấy là các Tăng đầu tiên của Phật Giáo nước ta. Số Tăng chắc đã khá đông khi Mâu Tử viết sách Tri hoặc Luận tại Luy Lâi vào cuối thế kỷ thứ 2. Còn đến bao giờ mới có nữ giới tu đạo Phật, thành Sa-di-ni, Tỷ-khưu-ni, ta không biết được vì không có sách chép.
08/04/2013(Xem: 4114)
Đã tạo được nhiều phước báu trong quá khứ, vào thời của Đức Phật Siddhattha Gotama, Bậc Tôn Sư Toàn Giác Tối Thượng, nàng Subha tái sanh vào gia đình của một vị bà la môn khả kính tại Rajagaha (Vương Xá, ngày nay là Rajgir, Ấn Độ). Nàng có sắc đẹp tuyệt trần, trong toàn thể thân nàng chỗ nào cũng dễ mến, vì lẽ ấy có tên là Subha. Khi Đức Bổn Sư ngự tại Rajagaha cô đặt niềm tin (saddha) vững chắc nơi Ngài và trở thành một nữ thiện tín.
08/04/2013(Xem: 3294)
Điều tốt đẹp mà người mẹ, người cha, hay bất luận thân bằng quyến thuộc nào có thể làm, một cái tâm hướng thiện có thể, và nâng ta lên đến mức cao quý (2). Lời dạy này được Đức Phật ban truyền trong khi Ngài ngự tại Tịnh Xá Jetavana (Kỳ Viên), trong thành Savatthi, chuyện liên quan đến một ông quan giữ kho. Câu chuyện bắt đầu tại thị trấn Soreyya và kết thúc tại Savatthi.
08/04/2013(Xem: 3990)
Vào lúc hoàng hôn, vầng thái dương dần dần đắm chìm xuống chân trời ở Phương Tây. Ánh sáng của mặt trăng rằm từ từ ló dạng ở Phương Đông. Ngày đã chấm dứt, và màn đêm bắt đầu phủ xuống. Vào lúc bấy giờ vị đạo sĩ ẩn dật tên Upagupta, đệ tử của Đức Phật, rời xa liêu cốc của mình, an nghỉ bên cạnh một con đường đầy cát bụi, dưới vòm trời mịt mờ u tịch, gần vách thành của thị trấn Mathura, Ấn Độ
08/04/2013(Xem: 3789)
Ngày nay, người phụ nữ chiếm tỷ lệ khá cao trong dân số nước ta, cũng như trên thế giới. Chẳng những đông về số lượng, người phụ nữ còn giữ nhiều vai trò quan trọng trong cộng đồng quốc gia hoặc quốc tế. Có thể nói song song với nhịp tiến hóa của nhân loại, người phụ nữ ngày nay đã thăng hoa tri thức và tài năng trong nhiều lãnh vực khác nhau.
08/04/2013(Xem: 3544)
Phật giáo được du nhập vào Hàn Quốc đến nay hơn 1.600 năm, nhưng lịch sử của Phật giáo Hàn Quốc lại không có nhiều ghi nhận về hoạt động của Ni giới. Thật ra ở Hàn Quốc, Ni giới đã có công lớn trong việc truyền bá Phật pháp ở những giai đoạn đầu của lịch sử. Qua các thời đại Tam kinh (37 trước Tây lịch - 668 sau Tây lịch), Silla Thống nhất (668-935), Goryeo (còn gọi Goh Ryur hoặc Koryo, 918-1392), Joreon (còn gọi Joh Surn hoặc Choson 1392-1910) và thời hiện đại ngày nay, Phật giáo tiếp tục được duy trì và phát triển. Tùy địa phương khác nhau mà vị trí, vai trò và sự biểu hiện của Ni giới trong Phật giáo cũng đa dạng tùy duyên.
08/04/2013(Xem: 3671)
Giới học giả đã bỏ ra không ít thời gian và giấy mực để bàn về chuyện bình đẳng hay không bình đẳng giữa Tăng và Ni với những giới luật chênh lệch từ thời đức Phật. Nhận thấy đây là vấn đề hay nên tôi cũng thường lưu tâm khi có những ý kiến mới ...
08/04/2013(Xem: 4144)
Khi Đức Phật Siddhattha Gotarna (Sĩ Đạt Ta Cồ Đàm) thị hiện ở Ấn Độ cách nay hơn 2,500 năm về trước, người phụ nữ có một địa vị rất thấp kém và đê hèn trong xã hội Ấn Độ. Vào thời bấy giờ, trong phần còn lại của thế giới văn minh, trải dài từ Trung Hoa đến Hy Lạp, vị trí của người phụ nữ vẫn khiêm nhường và hạ cấp. Ngày nay, cùng khắp nơi ai ai cũng nhìn nhận rằng Đức Phật là người đã sáng lập một tôn giáo được truyền bá sâu rộng trên thế gian, phổ cập đến những hang cùng hóc hẻm của quả địa cầu, đã ban truyền một triết lý huy hoàng và vĩ đại nhất trong lịch sử tư tưởng loài người.
08/04/2013(Xem: 5314)
Ngôi tự viện nằm phía Đông thành Savatthi là do bà Visakha, vị nữ thí chủ nhiệt thành của Đức Phật, dâng cúng. Bà được Đức Phật ngợi khen là đứng hàng đầu các bà tín nữ. Nhưng hơn nữa, câu chuyện sau đây của bà Visakha và những lời dạy bảo của ông cha bà cho thấy rằng vào thời bấy giờ người ta đối xử rất nghiêm khắc đối với hàng phụ nữ. Mặc dầu thái độ gắt gao đối với nữ giới và mặc dầu cuộc sống của người phụ nữ có rất nhiều giới hạn, nhờ đức tin dũng mãnh nơi Giáo Huấn của Đức Phật, bà Visakha đã có khả năng vượt lên trên những giới hạn ấy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]