Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Tựa của Dịch Giả

15/12/201015:18(Xem: 12752)
Lời Tựa của Dịch Giả

TỔNG QUAN

VỀ NHỮNG CON ĐƯỜNG
CỦA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG
Nguyên tác: A Survey Of The Paths Of Tibetan Buddhism
Tác giả: His Holiness Tenzin Gyatso 14th Dalai Lama of Tibet
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 19/06/2010
Làng Đậu hiệu đính

LỜI TỰA

Những nhà nghiên cứu và Phậttử Phật giáo theo truyền thống Trung Hoa thường nghe nói đến Ngũ Thời Thuyết Giáocủa Thiên Thai TríGiả Đại Sư[1]quabài kệ:

HoaNghiêm tối sơ tam thất nhật

AHàm nhị thập, Phương Đẳng bát

Nhịthập nhị niên Bát Nhã đàm

PhápHoa, Niết-bàn cộng bát niên

Tức là, đức Phật sau khithành đạo đã thuyết giảng Kinh Hoa Nghiêmtrong hai mươi mốt ngày, hai mươi năm tiếp theo là Kinh A Hàm, tám năm kế là KinhPhương Đẳng, rồi hai mươi hai năm KinhBát-nhã, và cuối cùng đức Phật thuyết KinhPháp HoaKinh Niết-bàntrongtám năm.

Nhưng khi học hỏi về Phậtgiáo Tây Tạng, chúng ta thấy chư vị tổ sư Phật giáo Tây Tạng đã nói đến ba thờichuyển pháp luân. Chuyển pháp luân lần thứ nhất đức Phật thuyết về Tứ Diệu Đế,Thập Nhị Nhân Duyên, Ba Mươi Bảy Bồ Đề Đạo Phẩm, … Chuyển pháp luân lần thứ haiđức Phật thuyết về Kinh Bát-nhã, chuyên nói về tính Không. Và lần thứ ba đức Phậtthuyết về những kinh như Giải Thâm Mật,…, và những bộ mật điển [Tantra] là nhữngbộ phận dường như vắng bóng trong Hán Tạng và như lời đức Dalai Lama, “Chuyểnpháp luân lần thứ ba được nối kết với những phương cách khác nhau của việc nângcao tuệ trí thân chứng tính không. Vì thế chúng tôi nghĩ có một liên kết ở đâygiữa kinh điển và mật điển.”

Là người nghiên cứu Phật học,chúng ta phải biết chúng ta muốn gì ở Đạo Phật. Và là người Phật tử thực hànhPhật Pháp, chúng ta phải biết đức Phật muốn chúng ta làm gì. Hay mục tiêu củangười nghiên cứu và thực hành Phật Pháp để làm gì?

Trong Kinh Pháp Hoađức Phật nói rằng, "Mục đích của chư Phật ra đờichỉ vì một việc: Đem Tri kiến Phật chỉ dạy cho chúng sanh tỏ ngộ đấy mà thôi!Chư Phật Như Lai nói pháp cho chúng sanh chỉ vì dạy cho họ một ‘Phật thừa’ chớkhông có hai thừa, ba thừa nào khác. Pháp của chư Phật trong mười phương cũng đềunhư vậy"[2].

Thế nào là khai, thị, ngộ,nhập chúng ta có thể hiểu qua một vi dụ:

Tri viên (người làm vườn) dẫnmột đoàn người đến trước cổng vườn và mở cửa cổng - KHAI

-Tri viên bèn chỉ - đây làhoa lan (thinh văn thừa), này hoa hồng (duyên giác thừa), nọ, xa hơn một chútlà hoa huệ (Bồ-tát thừa), và xa tít đằng kia là hoa sen (Phật thừa) - THỊ

-Đoàn người theo bèn Ồ lên mộttiếng và nói, đúng là trăm nghe không bằng một thấy, nay mới thật sự tường tậnthấy, nghe, hiểu, biết - NGỘ

-Đoàn người theo sự hướng dẫncủa tri viên cùng bước vào vườn dạo cảnh, xem hoa - NHẬP

Thinh văn thừa là thế nào,những pháp môn nào, những điều kiện nào để đạt đến Thinh văn quả?

Duyên giác thừa là thế nào,những pháp môn nào, những điểu kiện nào để đạt đến Duyên giác quả?

Bồ-tát thừa là thế nào, nhữngpháp môn nào, những điều kiện nào để đạt đến Bồ-tát quả?

Phật thừa là thế nào, nhữngpháp môn nào, những điều kiện nào để đạt đến Phật quả?

Mỗi người đến với Đạo Phậtphải tìm hiểu, học hỏi, lựa chọn và thực hành để đạt đến mục tiêu của mình.Chúng phải nói rằng sự lựa chọn ấy có thể theo căn cơ, theo sở thích, hay theonhân duyên. Nhưng chúng ta phải thực sự tìm hiểu, nghiên cứu để lựa chọn lộtrình tu tập, và thực hành một cách nghiêm mật không dời đổi thì mới mong đạt đếnkết quả tối hậu, chứ không thể nay pháp môn này mai pháp môn khác; khi Thinhvăn thừa, lúc Bồ-tát thừa, rồi Phật thừa. Vì muc tiêu hay điểm đến cứ dời đổi,làm thế nào chúng ta có thể đạt đến kết quả cuối cùng khi thật sự chúng ta cũngkhông biết kết quả mình muốn đến là gì?

Đọc “Tổng Quan Những Con Đường[3]Của Phật Giáo Tây Tạng”,chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọicon đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra, sự thực hành Tantra khôngchỉ của tông Gelugpa mà của bốn tông phải chính của Phật giáo Tây Tạng, một conđường mới lạ với các Phật tử Đông Độ, đấy là Phật tri kiến, đấy là Phật thừa,vì mỗi chúng ta đều có khả năng để thành Phật, mà đấy là Phật tính, mà đấy làcơ sở căn bản của mọi Phật tử dù tu theo Tịnh Độ, Thiền Tông hay Mật Tông, chỉcó phương tiện đạt đến là khác nhau. Nhất là Ba Phương Diện Chính Yếu Của Con Đường Tu Tậpdo tổ sư Tsongkhapa[4]đềra mà đấy là cơ sở lập cước của mọi Phật tử dù tu theo Pháp môn nào[5]:

1- Viễn ly: một chí nguyện đạt đến sự giải thoát khỏi vòng sinh tửluân hồi, vì những khổ đau kinh khiếp của nhà lửa tam giới.

2- Bồ đềtâm: để đạt được một sự giải thoát như thế thì phải tạo nên một công đức lớnlao, mà không vì hơn là phát nguyện tu để đạt đến kết quả giải thoát giác ngộ đểcó năng lực hổ trợ tất cả chúng sinh cùng thoát ly sinh tử và chứng quả giác ngộ.

3- Tính Không: chỉ có tuệ trí thực chứng tính Không mới có thể triệttiêu tất cả mọi phiền não vọng tưởng và đạt đến giải thoát giác ngộ.

Và đối với đạo pháp KimCương Thừa, đức Dalai Lama thường nhắc nhở mỗi khi thuyết giảng hay truyền pháplà, nếu quý vị đến đây nhận lễ truyền pháp này để cầu phước báu, hay sự giảithoát cho riêng mình là sai lầm.

Trong Thanh Tịnh Đạo Luận[6]cónói đến ba bậc phát tâm để tu tập:

Bậc hạ để cầu tái sinh hưởng phước báu.

Bậc trung để cầu sự giải thoát sinh tử.

Bậc thượng tu vì tất cả chúng sinh.

Đấy là sự phát tâm lập cướcngay từ lúc đầu, nhưng trong Lộ trình Tiệm Tiến Lamrim cũng nói đến ba tầng bậctương tự như vậy, nhưng đấy là những nấc thang để tiến lần lên sự giác ngộ tốihậu.

Đức Dalai Lama cũng từng nói trong quyển Mật Thừa [Tantra,Vajrayana] Tây Tạng rằng[7]:

Nguyện vọng vị tha hướng đếngiác ngộ tối thượng vì tất cả chúng sanh là nền tảng của sự thực hành của một Bồ-táttrong cả hai Thừa Hoàn Thiện và Kim Cương thừa. Nguyện vọng vị tha được khởi dẫntừ tình thương và bi mẫn, chúng là kết quả của việc nhìn thấy sự khổ đau củavòng sanh tử, phát sanh ý muốn từ bỏ nó, và rồi áp dụng cái hiểu biết này chonhững người khác. NẾU MỘT NGƯỜI KHÔNG MUỐN THOÁT KHỎI VÒNG SANH TỬ, THÌ KHÔNGTHỂ NÀO MONG MUỐN CHO NHỮNG NGƯỜI KHÁC THOÁT KHỎI NÓ. Ý muốn từ bỏ vòng sanh tửnày là chung cho cả Tiểu thừa lẫn Đại thừa và trong Đại thừa thì chung cho cảThừa Hoàn Thiện [Ba-la-mật-đa thừa] và Kim Cương thừa.

Thiền sư Nhất Hạnh cũng nói trong Năng Lực của Cầu Nguyện rằng:

Ba điều cầu nguyện thông thườnglà sức khoẻ, sự thành đạt, và sự hài hoà. Nhưng đối với người xuất gia thì cókhác, điều cầu nguyện trước tiên nhất của người xuất gia là vượt thoát sinh tửvà thực hiện cho được sự an lạc hạnh phúc của pháp giới bản môn ngay trong thếgiới tích môn.

Nguyện mọi người khi đọc đếntác phẩm rất súc tích này để thấy những lời vàng ngọc của đức Dalai Lama để cósự lựa chọn rõ ràng cho lộ trình tu tập của mình để đạt đến kết quả tối hậu,như một mục tiêu của mình khi đến với đạo Phật.

Nguyện đem công đức này dânglên đức Dalai Lama, các bậc thầy tổ, cùng tất cả chúng sinh cùng đạt đến kết quảgiải thoát giác ngộ. Xin cám ơn sự giới thiệu và hiệu đính của đạo hữu Làng Đậu,dù biết rằng khả năng của Tuệ Uyển rất hạn chế, nhưng được sự khuyến khích củaanh, cùng muốn giáo pháp của đức Dalai Lama một trong những bậc Đạo sư vĩ đạinhất của thời đại được lưu bố, như cơn mưa tưới xuống thế gian này nên tác phẩmcó cơ duyên được hiện diện. Rất hổ thẹn vì khả năng, cùng sự thiếu sót củamình.

Nguyện cho mây lành từ ái và mưa pháp bi mẫn che chở và tưới mátkhắp thế gian.

Nam-mô A-di-đà Phật

Tuệ Uyển

[1]TríDi (智顗 538 - 597) được coi là Tổ thứ tư của Thiên Thai tông; đệtử của Huệ Tư, Tổ thứ ba của Thiên Thai tông. Ông tu trên núi Thiên Thai thuộctỉnh Chiết Giang 22 năm cho đến khi mất để nghiên cứu Phật học. Tùy Dưỡng Đế đãban cho ông danh hiệu Trí Giả, nên ông được người đời tôn xưng là Trí Giả đạisư hay Thiên Thai đại sư. Nhiều tài liệu đã phổ biến tên không chính xác củaông là Trí Khải.

”Trí Di”.Wikipedia. <http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C3%AD_Di>. Truy cập23/08/2010

[2]Trích Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Quyển thứ Nhất.Phẩm “Tựa” . Kệ 18.”Kinh Diệu-Pháp Liên Hoa”. Con Đường Thiện Đạo.<http://conduongthiendao.com/PhatDao/KinhPhat/DieuPhapLienHoa/PD-KP-DPLH-QuyenThuNhat-Index.htm>.Truy cập23/08/2010.

[3]Trongbản dịch này từ đây về sau chúng tôi sẽ dùng các thuật ngữ “con đường”, “lộtrình”, “đạo”, hay “đạo pháp” với cùng một ý nghĩa.

[4]Còngọi là Tông-khách-ba, 1357-1419, là một vị Lama lớn của Tây Tạng, nhà cải cáchlừng danh của Phật giáo tại đây. Sư sáng lập tông phái Cách-lỗ [gelugpa], với mộttrong những giáo pháp quan trọng nhất của Phật giáo Tây Tạng là giáo phápLamrim Chenmo [Bồ-đề Đạo Thứ Luận hay Giai Trình Của Giác Ngộ].

Sư sinh ratrong lúc các Tạng kinh tại Tây Tạng đã được biên soạn xong nhưng Sư chủ trươngsoát xét lại toàn bộ kinh điển và tổng kết thành quả của mình trong hai tác phẩmchính: Bồ-đề đạo thứ đệ và Chân ngôn đạo thứ đệ. Sư là người xây dựng nhiềutháp quan trọng tại Tây Tạng như Drepung, Sera và Ganden.

”Tông-khách-ba”.Wikipedia. <http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4ng-kh%C3%A1ch-ba>. Truy cập26/08/2010.

[5]Trích từ Bàigiảng tóm lược của đức Dalai Lama về tác phẩm “Ba Phương Diện Chính Yếu của ConĐường”. Tsongkhapa. Anh ngữ: AlexanderBerzin. Việt Ngữ: Tuệ Uyển.

<http://vnthuquan.net/diendan/(S(hmjvq245xfxxtw45ohjgtibl))/tm.aspx?m=546981>.Truy cập 23/08/2010.

[6]Thanh Tịnh Đạo(p. visuddhi-magga), nghĩa là "con đường dẫn đến thanh tịnh",là tên của một bộ luận cơ bản của Thượng Toạ Bộ (p. theravādin), được Phật Âm(p. buddhaghosa) soạn trong khoảng thế kỉ thứ 5. Thanh Tịnh Đạo trình bày giáolí của Đại Tự (p. mahāvihāra), một trong những trường phái Pali.

Bộ luận này gồmcó 3 phần với 23 chương: chương 1-2 nói về Giới, chương 3-13 nói về Định vàchương 14-23 nói về Huệ. Phần nói về địnhtrình bày rõ các phương pháp và đối tượng quán niệm của Thượng Toạ bộ, khả năngphát triển và thánh quả của các phép thiền định. Trong phần Huệ, Thanh tịnh đạotrình bày giáo lí cơ bản của đạo Phật như Tứ Điệu Đế, Duyên Khởi, Bát Chính Đạo...

“Thanh Tịnh Đạo”. <http://vi.wikipedia.org/wiki/Thanh_t%E1%BB%8Bnh_%C4%91%E1%BA%A1o>.Wikipedia. Truy cập 25/08/2010

[7]Tríchtừ phần III Phụ Lục trả lời phỏng vấn của đức Dalai Lama.

“Tantra inTibet”. Tsongkhapa. Dalai Lama ‘s teaching. Eng. Trans. Jeffrey Hopkins. Viet.Trans. An Phong.

<http://www.quangduc.com/mattong/43matthuataytang3.html>.Truy cập 23/08/2010

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/03/2023(Xem: 9375)
Tây phương Kinh tế học có thể bị chỉ trích bởi dựa trên sự hợp lý hóa hành vi cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận vì lợi ích của một nhóm nhỏ, phụ thuộc vào sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và sự suy thoái môi trường chung của chúng ta. Trong khi đó, Kinh tế học Phật giáo được hình thành dựa trên sự tương tác phụ thuộc lẫn nhau của con người và môi trường, do đó mang lại sự an lạc hạnh phúc dựa trên từ bi tâm đối với tất cả chúng sinh. Mục tiêu của nó là duy sự phát triển bền vững gắn liền bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay, đồng thời khẳng định sự thịnh vượng chung và mang đến sự an lạc thịnh đạt cho người lao động, khách hàng, cổ đông và xã hội.
03/02/2023(Xem: 8393)
Đã có rất nhiều tài liệu đề cập về Thiền bao gồm Thiền Định, Thiền Chỉ, Thiền Quán, Thiền Tọa, Thiền Hành, Thiền Phàm Phu, Thiền Ngoại Đạo, Thiền Tiểu Thừa, Thiền Trung Thừa, Thiền Đại Thừa, Thiền Tối Thượng Thừa...Tất cả đều là những sắc thái, tướng trạng, hiện tượng và tác động từ tâm thức chúng ta trong ý hướng tu tập trên đường giải thoát, giác ngộ Phật đạo. Sự giác ngộ giải thoát nơi Phật Đạo, tuy nhiên, lại quá phong phú, đa diện với sắc thái tâm thức rất sâu xa vi tế nên dù Phật tánh
31/01/2023(Xem: 9549)
Kinh Châu Báu, thuộc kinh điển Nam Truyền, Tiểu Bộ Kinh, là một bài kinh Hộ Trì hay Cầu An, do Đức Phật Thích Ca nói ra khi Ngài được thỉnh đến thành Vesali, dân chúng đang chịu ba thứ nạn, nạn dịch bệch, nạn đói và nạn Phi Nhân. Dân chúng ở đây cầu mong nhờ ân đức cao trọng của Đức Phật, nhờ Phật Lực mà các hoạn nạn được tiêu trừ.
07/01/2023(Xem: 8045)
Phương pháp phát triển cá nhân mà nhà sư Sangharakshita nói đến trong bài này là phép thiền định của Phật giáo, một phép luyện tập nhằm biến cải một con người bình dị trở thành một con người đạo đức, sáng suốt và cao quý hơn, và ở một cấp bậc sâu xa hơn nữa còn có thể giúp con người đạo đức, sáng suốt và cao quý ấy thoát ra khỏi thế giới hiện tượng luôn trong tình trạng chuyển động và khổ đau này.
23/12/2022(Xem: 21571)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
02/11/2022(Xem: 22608)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 19335)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 15701)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 9781)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 11317)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]