Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Nét Văn Hóa Của Ðạo Phật.

09/04/201312:15(Xem: 7777)
Những Nét Văn Hóa Của Ðạo Phật.



Những Nét Văn Hóa Của Đạo Phật

Trung Tâm Văn Hóa – Chùa Việt Nam

TT. Thích Phụng Sơn

---o0o---

1. Vài Lời Thưa

Những bài viết trong tập sách này chỉ là một cố gắng nhỏ bé nhằm trình bày những đóng góp của Phật giáo vào nền văn hóa nhân loại. Hiện nay ở các nước Âu châu, Úc châu và Mỹ châu người ta đã bước qua giai đoạn tìm hiểu tư tưởng và sinh hoạt Phật giáo. Rất nhiều người đã tham dự vào các chương trình tu tập cùng thưởng thức các nét đẹp của nền văn hoá Phật giáo qua các sinh hoạt thiền quán, hoa đạo, trà đạo, vườn cảnh cùng các sinh hoạt khác mà các dân tộc Á châu mang đến các xã hội Tây Phương.

Một trong các chân lý mà đạo Phật nhấn mạnh đó là tính cách thường hằng giữa mọi cái vô thường, cái không bao giờ thay đổi giữa những sự thay đổi tiếp nối nhau cho đến vô cùng. Cái không bao giờ thay đổi vốn bao la như vũ trụ, trong sáng, tĩnh lặng, không có bắt đầu và tận cùng. Đó là chân tâm, Phật tánh, là tâm chân thật nơi mỗi chúng ta. Tâm này không có bắt đầu và không có tận cùng, không có sinh ra rồi chết đi, bao la cùng khắp cho nên không có đến từ đâu và đi về đâu, vừa tĩnh lặng vô cùng mà vừa linh động kỳ diệu nên được gọi là tịch và chiếu. Nơi loài vật và thiên nhiên, tánh rỗng lặng, trong sáng, tinh sạch, tỏa chiếu ấy vẫn có nên gọi Phật tánh có mặt ở mọi loài và mọi thú. Tánh chân thật tự nhiên ấy được gọi là Pháp Giới Tánh hay là tánh của vạn pháp trong thế giới chân thật. Đó là thế giới của cái tuyệt đối hay là Lý.

Mọi sự vật đều bị hạn chế trong không gian và thời gian và có tính vô thường. Tánh thay đổi hay vô thường đó là một tiến trình tự nhiên, miên viễn của mọi sự vật, vạn pháp, trong thế giới hàng ngày ở mọi nơi và mọi chốn. Tất cả mọi sự vật đều được sinh ra, có mặt, hư hao rồi tan rã. Các phần tách lìa này khi hết duyên kết hợp với nhau lại trở thành nhữnh nhân mới, gặp những yếu tố thuận lợi mới hay là duyên để rồi lại xuất hiện trong một hình thái mới mà đạo Phật gọi là duyên hợp hay duyên khởi. Nếu nhìn các tác động của mọi sự vật, vạn pháp, qua những chuỗi tác động mãi mãi không cùng, trùng trùng điệp điệp thì chúng ta thấy tính cách trùng trùng duyên khởi của vạn pháp. Đó là thế giới của mọi sự vật trong không gian và thời gian tương đối hay thế giới của Sự.

Điều kỳ diệu của đời sống là cái tuyệt đối, hay Lý, không bao giờ tách lìa cái tương đối, hay Sự. Lý và Sự, cái tuyệt đối và cái tương đối đồng một lúc có mặt với nhau, trong nhau, không hề tách rời, không hề ngăn ngại như nước và sóng trong biển cả. Đó là thế giới của Lý Sự Viên Dung, là sự hòa hợp tròn đầy giữa tuyệt đối và tương đối. Và điều kỳ diệu hơn nữa là trong thế giới hàng ngày, trong đó có mặt của mọi màu sắc , dáng vóc, âm thanh, mùi, vị, cảm xúc cùng các ý tưởng, tâm tư, tất cả đều trong sáng, rỗng lặng, yên ổn trong các thay đổi, tác động, chuyển biến thuận nghịch vô cùng vô tận. Đó là thế giới của Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới, là thế giới của mọi thứ cùng có mặt bên nhau mà không ngăn ngại nhau. Đó là thế giới của tâm giác ngộ hay của tâm ở trong trạng thái tự do tuyệt vời, siêu vượt lên mọi sự đối chọi của các sự khác biệt.

Các nét đẹp của nền văn hóa Phật giáo sáng rực trong cái Lý, trong cái Sự, trong Lý Sự Viên Dung và trong Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới đó. Thật ra, cái đẹp kỳ diệu ấy không giới hạn trong một nền văn hóa của một dân tộc hay nhiều chủng tộc, trong một nền văn hoá của đông hay tâỵ Cái kỳ diệu đẹp đẽ bao la ấy ở mọi nơi, mọi chốn.

Thấy được cái thiên thu vĩnh cữu nơi một chiếc lá ngô đồng rực rỡ vừa rụng xuống trên bãi cỏ xanh, nhìn những cánh bướm yên lặng bất động nơi các con bướm bay lượn chập chờn quanh những đóa hoa xuân tươi thắm vừa chớm nở, bắt gặp được nét mặt an bình và nụ cười thầm lặng sâu thẳm như nét mặt và nụ cười của một tượng Phật cổ trong một ngôi chùa tĩnh mịch, xa cách trần gian nơi khuôn mặt của một thanh niên đang hoạt động náo nhiệt giữa chốn phố phường, nghe được cái tĩnh lặng vô cùng trong những âm thanh vang dội, an ngự trong sự bình an tỏa chiếu giữa mọi sự quay cuồng, náo nhiệt, chuyển biến, thương yêu hay ghét bỏ. Với đôi bàn tay trần, cầm đóa hoa tỏa đầy hương thơm cùng màu sắc rực rỡ của thiên thu vĩnh cữu trong một phút giây ngắn ngủi.

Đó là sự tự do cao vút nhất và cũng là sâu thẳm nhất, đó là niềm hạnh phúc bao gồm cả đất trời, mênh mông, vô tận, không có bắt đầu và tận cùng, đó là sự chân thật diễn ra từng giây phút nơi đây và mọi chốn. So với sự chân thật của cuộc đời ấy, những điều trình bày trong tập sách nhỏ bé này chỉ là một hạt bụi trong vũ trụ mênh mông.

Trong hạt bụi nhỏ bé đó tràn đầy sự biết ơn bao la như bầu trời rộng lớn. Chúng tôi xin thành kính tri ân sự đóng góp quý báu của hai đạo hữu Phạm Bá Trung và Phạm Thị Kiều Nga đã bỏ rất nhiều thời giờ để trình bày quyển sách này, Thầy Viện Chủ Trung Tâm Phật Giáo Việt Nam Thích Nguyên Hạnh ở Houston, Texas, đã khuyến khích cùng đề nghị nhiều điều làm cho quyển sách này được tốt đẹp hơn, đạo hữu Ngô Văn Khán đã đọc lại giùm bản thảo cùng vận động tài chính để in và quý vị đã đóng góp để ấn tống tập sách nhỏ nàỵ Chúng tôi cũng xin cám ơn ông Châu Văn Thọ đã duyệt lại bản thảo trước khi in và ông giám đốc Kim Ấn Quán đã giúp cho quyển sách này được in đúng thời hạn.

Chúng tôi xin hướng về các trẻ em nghèo khổ, các người bệnh tật cùng quý vị Tăng Ni và cư sĩ đang hoạt động để giúp đỡ họ bên quê nhà chấp tay dâng lời cảm tạ và cầu nguyện. Chính sự quen và biết quý vị cùng thấy rõ sự hy sinh lớn lao của quý vị cho những đồng bào nghèo khổ và bệnh tật là một khích lệ lớn lao cho chúng tôi thực hiện việc in tập sách này như một món quà nhỏ bé kính dâng Quý Thầy, Cô cùng các bạn nam nữ Phật tử đang tham dự các công tác Phật sự cũng như xã hội tại quê nhà.

Chúng tôi xin tỏ lòng biết ơn các tác giả những bức ảnh chụp về trà đạo và vườn thiền do Sở Thông Tin Nhật Bản phổ biến, tác giả bức ảnh tượng Phật ở Bảo Tàng Viện Victoria và Albert, ảnh chụp của Zena Flax về một cộng đồng Phật Giáo ở Anh Quốc, tác giả chụp lại các bức cổ họa Trung Hoa và Nhật Bổn và các bức hình khác cùng hình vẽ các vị Phật và hình thường được in trên những tạp chí Phật giáo mà không có ghi tên tác giả.

Trong các bài viết, chúng tôi thỉnh thoảng có thêm một vài chữ tiếng Anh để các bạn trẻ không quen nhiều vói tiếng Việt nhận biết rõ ràng hơn theo lời đề nghị của quý vị phụ huynh hay chính các bạn trẻ đó.

Cuối cùng, chúng tôi thành kính tri ân quý vị Thầy và Cô Việt Nam đã không hề khó nhọc trong bao năm qua, lặng lẽ truyền bá lời dạy của Đúc Phật về con đường an vui và hạnh phúc chân thật cho mọi người.

Phật Lịch 2537

Đệ tử Thích Phụng Sơn Cẩn Bái

Xuân Quý Dậu - 1993

2. Lời Giới Thiệu

Sức sống của một nền Đạo lý Từ Bi, Trí Tuệ như Đạo Phật thì chỉ có thể là sức sống văn hóa. Bởi vì, chỉ trên bình diện văn hóa, hoặc ở nhữnh hình thái sống động của đời sống hoặc thâm trầm trong tâm hồn con người, nguồn suối Từ Bi, Trí Tuệ mới có thể thẩm thấu, chan hoà như đã thẩm thấu, chan hoà trong đời sống và tâm hồn của phần lớn các dân tộc Á Đông.

Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người. Văn hóa như nước, yếu mềm là thế mà lại không có kiếm đao nào chặt gảy thành từng khúc được. Chính vì vậy mà, nhìn trên bề mặt những cơ cấu, tổ chức, rất nhiều khi tưởng như Đạo Phật chẳng còn đâu sức sống trước những tác động tiêu cực của thời thế nhưng với chút lòng mẫn cảm với những lắng đọng xâu xa ở đời sống thì lại thấy Đạo Phật vẫn sống nguyên vẹn đó như chưa từng chết đi.

Sức sống văn hóa của Đạo Phật ấy – như chính bản chất Từ Bi, Trí Tuệ của Đạo Phật – có thể không tạo nên những công trình vĩ ��ại cao kỳ của một nền văn hóa xa hoa mang đầy tính cách phù phiếm, bất chấp mọi nỗi thống khổ của hiện sinh; cũng có thể không có sức quyến rũ mãnh liệt như nền văn hóa vật chất ngày nay đang lấy dục vọng làm nguồn năng lực kích động cho nó. Nhưng sức sống văn hóa của Đạo Phật ấy đã có thể tạo nên được những tâm hồn bình dị trong lành, những nếp sống an hòa tươi mát; ở đó, vũ trụ thiên nhiên và con người hòa điệu với nhau và cùng biểu lộ cái đẹp thuần khiết, chân thực nhất của chúng. Cũng ở đó, con người – trong hòa điệu với vũ trụ thiên nhiên – có thể sống được cái giây phút vĩnh cữu của đời sống mong manh này, cái giây phút vượt ra ngoài mọi biên tế chia lìa mà đầu óc xung động bất toàn của con người luôn tạo ra. Một bình hoa mang Ý Đạo. Một tách trà trong chốn thinh lặng của Thiền. Một hòn đá tảng đơn độc giữa chốn thành quách cỏ cây ngậm ngùi sương gió. Một lời kinh tụng thức tĩnh con người trổi dậy đối mặt với nỗi-sống-chết thiêng liêng của chính mình… Tất cả đó, như có cái gì bất động giữa không ngừng lay động, cái gì lặng lẽ vô ngôn giữa thanh âm vang động miên man. Tất cả đó, nghệ thuật của Đời Sống đi vào cõi Đạo hay ngược lại, Đạo thấm nhuần vào trong cõi Sống. Trong một ý nghĩa nào đó, ta có thể nói, giữa biển đời trầm luân sóng gió này, sống mà như thế là Sống Đạo; và mặt khác, giữa những hình thức lễ nghi tế toái của tôn giáo, Đạo mà như thế thì thực là Đạo sống vậỵ

Sống Đạo là sống văn hóa trog ý nghĩa đẹp nhất của nó. Và Đạo Sống chính là Đạo như nguồn sống văn hóa nàỵ Tôi tin là bạn đọc có thể thấy được cả hai trong tác phẫm “Những Nét Văn Hóa của Đạo Phật” ở đâỵ

Giữa lúc Đạo Phật Việt Nam đang bị chìm ngập vào một hoàn cảnh khắc nghiệt của thời thế và vào những hình thái sinh hoạt tín ngưỡng nhiều khi không còn khế hợp với cảm xúc của con người ngày nay, tác phẫm này ra đời là một đóng góp thiết thực. Càng thiết thực hơn khi chúng ta có thể có những công trình đề cập đến những đóng góp của Đạo Phật trong văn hóa dân tộc qua lịch sử nhưng thực là hiếm hoi để có một tác phẩm nói đến văn hóa của Đạo Phật như một thực tại sống động của đời sống con-người-ở-đây-và-bây-giờ như tác phẩm nàỵ

Chính tính cách thiết thực đó mà tôi xin được giới thiệu tác phẩm này đến bạn đọc mười phương với tất cả tấm lòng trân trọng tác phẩm và biết ơn tác giả.

Houston, mùa Phật Đản 2537

Thích Nguyên Hạnh


KhiCongTamPhap_1_Book


--- o0o ---

Vi tính: Chân Diệu Lan

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/11/2021(Xem: 11634)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12102)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 14971)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
07/05/2021(Xem: 16538)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12518)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 19967)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11622)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9098)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
18/03/2020(Xem: 4343)
Phần này bàn về cách dùng tiền gián, bẻ tiền bẻ đũa thời LM de Rhodes trong tự điển Việt Bồ La. Đây là tục lệ rất ít tài liệu nào ghi nhận. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false .
06/01/2020(Xem: 10792)
Đức Tổng Giám mục Colombo, Đức Hồng Y Malcolm Ranjith người Sri Lanka,Chủ tịch Hội đồng Giám mục Sri Lanka, phục vụ Giáo hội Công giáo La Mã của Thánh Matthew ở Ekala, Sri Lanka, gần đây đã nói điều gì đó dọc theo dòng “Nhân quyền đã trở thành tôn giáo mới nhất ở phương Tây. . . Người dân Sri Lanka đã nghiêng về con người thông qua Phật giáo, truyền thống tôn giáo chính thống của họ đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử. . . Những người không thực hành tôn giáo là những người bị treo lên Nhân quyền”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567