Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Nét Văn Hóa Của Ðạo Phật.

09/04/201312:15(Xem: 7593)
Những Nét Văn Hóa Của Ðạo Phật.



Những Nét Văn Hóa Của Đạo Phật

Trung Tâm Văn Hóa – Chùa Việt Nam

TT. Thích Phụng Sơn

---o0o---

1. Vài Lời Thưa

Những bài viết trong tập sách này chỉ là một cố gắng nhỏ bé nhằm trình bày những đóng góp của Phật giáo vào nền văn hóa nhân loại. Hiện nay ở các nước Âu châu, Úc châu và Mỹ châu người ta đã bước qua giai đoạn tìm hiểu tư tưởng và sinh hoạt Phật giáo. Rất nhiều người đã tham dự vào các chương trình tu tập cùng thưởng thức các nét đẹp của nền văn hoá Phật giáo qua các sinh hoạt thiền quán, hoa đạo, trà đạo, vườn cảnh cùng các sinh hoạt khác mà các dân tộc Á châu mang đến các xã hội Tây Phương.

Một trong các chân lý mà đạo Phật nhấn mạnh đó là tính cách thường hằng giữa mọi cái vô thường, cái không bao giờ thay đổi giữa những sự thay đổi tiếp nối nhau cho đến vô cùng. Cái không bao giờ thay đổi vốn bao la như vũ trụ, trong sáng, tĩnh lặng, không có bắt đầu và tận cùng. Đó là chân tâm, Phật tánh, là tâm chân thật nơi mỗi chúng ta. Tâm này không có bắt đầu và không có tận cùng, không có sinh ra rồi chết đi, bao la cùng khắp cho nên không có đến từ đâu và đi về đâu, vừa tĩnh lặng vô cùng mà vừa linh động kỳ diệu nên được gọi là tịch và chiếu. Nơi loài vật và thiên nhiên, tánh rỗng lặng, trong sáng, tinh sạch, tỏa chiếu ấy vẫn có nên gọi Phật tánh có mặt ở mọi loài và mọi thú. Tánh chân thật tự nhiên ấy được gọi là Pháp Giới Tánh hay là tánh của vạn pháp trong thế giới chân thật. Đó là thế giới của cái tuyệt đối hay là Lý.

Mọi sự vật đều bị hạn chế trong không gian và thời gian và có tính vô thường. Tánh thay đổi hay vô thường đó là một tiến trình tự nhiên, miên viễn của mọi sự vật, vạn pháp, trong thế giới hàng ngày ở mọi nơi và mọi chốn. Tất cả mọi sự vật đều được sinh ra, có mặt, hư hao rồi tan rã. Các phần tách lìa này khi hết duyên kết hợp với nhau lại trở thành nhữnh nhân mới, gặp những yếu tố thuận lợi mới hay là duyên để rồi lại xuất hiện trong một hình thái mới mà đạo Phật gọi là duyên hợp hay duyên khởi. Nếu nhìn các tác động của mọi sự vật, vạn pháp, qua những chuỗi tác động mãi mãi không cùng, trùng trùng điệp điệp thì chúng ta thấy tính cách trùng trùng duyên khởi của vạn pháp. Đó là thế giới của mọi sự vật trong không gian và thời gian tương đối hay thế giới của Sự.

Điều kỳ diệu của đời sống là cái tuyệt đối, hay Lý, không bao giờ tách lìa cái tương đối, hay Sự. Lý và Sự, cái tuyệt đối và cái tương đối đồng một lúc có mặt với nhau, trong nhau, không hề tách rời, không hề ngăn ngại như nước và sóng trong biển cả. Đó là thế giới của Lý Sự Viên Dung, là sự hòa hợp tròn đầy giữa tuyệt đối và tương đối. Và điều kỳ diệu hơn nữa là trong thế giới hàng ngày, trong đó có mặt của mọi màu sắc , dáng vóc, âm thanh, mùi, vị, cảm xúc cùng các ý tưởng, tâm tư, tất cả đều trong sáng, rỗng lặng, yên ổn trong các thay đổi, tác động, chuyển biến thuận nghịch vô cùng vô tận. Đó là thế giới của Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới, là thế giới của mọi thứ cùng có mặt bên nhau mà không ngăn ngại nhau. Đó là thế giới của tâm giác ngộ hay của tâm ở trong trạng thái tự do tuyệt vời, siêu vượt lên mọi sự đối chọi của các sự khác biệt.

Các nét đẹp của nền văn hóa Phật giáo sáng rực trong cái Lý, trong cái Sự, trong Lý Sự Viên Dung và trong Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới đó. Thật ra, cái đẹp kỳ diệu ấy không giới hạn trong một nền văn hóa của một dân tộc hay nhiều chủng tộc, trong một nền văn hoá của đông hay tâỵ Cái kỳ diệu đẹp đẽ bao la ấy ở mọi nơi, mọi chốn.

Thấy được cái thiên thu vĩnh cữu nơi một chiếc lá ngô đồng rực rỡ vừa rụng xuống trên bãi cỏ xanh, nhìn những cánh bướm yên lặng bất động nơi các con bướm bay lượn chập chờn quanh những đóa hoa xuân tươi thắm vừa chớm nở, bắt gặp được nét mặt an bình và nụ cười thầm lặng sâu thẳm như nét mặt và nụ cười của một tượng Phật cổ trong một ngôi chùa tĩnh mịch, xa cách trần gian nơi khuôn mặt của một thanh niên đang hoạt động náo nhiệt giữa chốn phố phường, nghe được cái tĩnh lặng vô cùng trong những âm thanh vang dội, an ngự trong sự bình an tỏa chiếu giữa mọi sự quay cuồng, náo nhiệt, chuyển biến, thương yêu hay ghét bỏ. Với đôi bàn tay trần, cầm đóa hoa tỏa đầy hương thơm cùng màu sắc rực rỡ của thiên thu vĩnh cữu trong một phút giây ngắn ngủi.

Đó là sự tự do cao vút nhất và cũng là sâu thẳm nhất, đó là niềm hạnh phúc bao gồm cả đất trời, mênh mông, vô tận, không có bắt đầu và tận cùng, đó là sự chân thật diễn ra từng giây phút nơi đây và mọi chốn. So với sự chân thật của cuộc đời ấy, những điều trình bày trong tập sách nhỏ bé này chỉ là một hạt bụi trong vũ trụ mênh mông.

Trong hạt bụi nhỏ bé đó tràn đầy sự biết ơn bao la như bầu trời rộng lớn. Chúng tôi xin thành kính tri ân sự đóng góp quý báu của hai đạo hữu Phạm Bá Trung và Phạm Thị Kiều Nga đã bỏ rất nhiều thời giờ để trình bày quyển sách này, Thầy Viện Chủ Trung Tâm Phật Giáo Việt Nam Thích Nguyên Hạnh ở Houston, Texas, đã khuyến khích cùng đề nghị nhiều điều làm cho quyển sách này được tốt đẹp hơn, đạo hữu Ngô Văn Khán đã đọc lại giùm bản thảo cùng vận động tài chính để in và quý vị đã đóng góp để ấn tống tập sách nhỏ nàỵ Chúng tôi cũng xin cám ơn ông Châu Văn Thọ đã duyệt lại bản thảo trước khi in và ông giám đốc Kim Ấn Quán đã giúp cho quyển sách này được in đúng thời hạn.

Chúng tôi xin hướng về các trẻ em nghèo khổ, các người bệnh tật cùng quý vị Tăng Ni và cư sĩ đang hoạt động để giúp đỡ họ bên quê nhà chấp tay dâng lời cảm tạ và cầu nguyện. Chính sự quen và biết quý vị cùng thấy rõ sự hy sinh lớn lao của quý vị cho những đồng bào nghèo khổ và bệnh tật là một khích lệ lớn lao cho chúng tôi thực hiện việc in tập sách này như một món quà nhỏ bé kính dâng Quý Thầy, Cô cùng các bạn nam nữ Phật tử đang tham dự các công tác Phật sự cũng như xã hội tại quê nhà.

Chúng tôi xin tỏ lòng biết ơn các tác giả những bức ảnh chụp về trà đạo và vườn thiền do Sở Thông Tin Nhật Bản phổ biến, tác giả bức ảnh tượng Phật ở Bảo Tàng Viện Victoria và Albert, ảnh chụp của Zena Flax về một cộng đồng Phật Giáo ở Anh Quốc, tác giả chụp lại các bức cổ họa Trung Hoa và Nhật Bổn và các bức hình khác cùng hình vẽ các vị Phật và hình thường được in trên những tạp chí Phật giáo mà không có ghi tên tác giả.

Trong các bài viết, chúng tôi thỉnh thoảng có thêm một vài chữ tiếng Anh để các bạn trẻ không quen nhiều vói tiếng Việt nhận biết rõ ràng hơn theo lời đề nghị của quý vị phụ huynh hay chính các bạn trẻ đó.

Cuối cùng, chúng tôi thành kính tri ân quý vị Thầy và Cô Việt Nam đã không hề khó nhọc trong bao năm qua, lặng lẽ truyền bá lời dạy của Đúc Phật về con đường an vui và hạnh phúc chân thật cho mọi người.

Phật Lịch 2537

Đệ tử Thích Phụng Sơn Cẩn Bái

Xuân Quý Dậu - 1993

2. Lời Giới Thiệu

Sức sống của một nền Đạo lý Từ Bi, Trí Tuệ như Đạo Phật thì chỉ có thể là sức sống văn hóa. Bởi vì, chỉ trên bình diện văn hóa, hoặc ở nhữnh hình thái sống động của đời sống hoặc thâm trầm trong tâm hồn con người, nguồn suối Từ Bi, Trí Tuệ mới có thể thẩm thấu, chan hoà như đã thẩm thấu, chan hoà trong đời sống và tâm hồn của phần lớn các dân tộc Á Đông.

Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người. Văn hóa như nước, yếu mềm là thế mà lại không có kiếm đao nào chặt gảy thành từng khúc được. Chính vì vậy mà, nhìn trên bề mặt những cơ cấu, tổ chức, rất nhiều khi tưởng như Đạo Phật chẳng còn đâu sức sống trước những tác động tiêu cực của thời thế nhưng với chút lòng mẫn cảm với những lắng đọng xâu xa ở đời sống thì lại thấy Đạo Phật vẫn sống nguyên vẹn đó như chưa từng chết đi.

Sức sống văn hóa của Đạo Phật ấy – như chính bản chất Từ Bi, Trí Tuệ của Đạo Phật – có thể không tạo nên những công trình vĩ ��ại cao kỳ của một nền văn hóa xa hoa mang đầy tính cách phù phiếm, bất chấp mọi nỗi thống khổ của hiện sinh; cũng có thể không có sức quyến rũ mãnh liệt như nền văn hóa vật chất ngày nay đang lấy dục vọng làm nguồn năng lực kích động cho nó. Nhưng sức sống văn hóa của Đạo Phật ấy đã có thể tạo nên được những tâm hồn bình dị trong lành, những nếp sống an hòa tươi mát; ở đó, vũ trụ thiên nhiên và con người hòa điệu với nhau và cùng biểu lộ cái đẹp thuần khiết, chân thực nhất của chúng. Cũng ở đó, con người – trong hòa điệu với vũ trụ thiên nhiên – có thể sống được cái giây phút vĩnh cữu của đời sống mong manh này, cái giây phút vượt ra ngoài mọi biên tế chia lìa mà đầu óc xung động bất toàn của con người luôn tạo ra. Một bình hoa mang Ý Đạo. Một tách trà trong chốn thinh lặng của Thiền. Một hòn đá tảng đơn độc giữa chốn thành quách cỏ cây ngậm ngùi sương gió. Một lời kinh tụng thức tĩnh con người trổi dậy đối mặt với nỗi-sống-chết thiêng liêng của chính mình… Tất cả đó, như có cái gì bất động giữa không ngừng lay động, cái gì lặng lẽ vô ngôn giữa thanh âm vang động miên man. Tất cả đó, nghệ thuật của Đời Sống đi vào cõi Đạo hay ngược lại, Đạo thấm nhuần vào trong cõi Sống. Trong một ý nghĩa nào đó, ta có thể nói, giữa biển đời trầm luân sóng gió này, sống mà như thế là Sống Đạo; và mặt khác, giữa những hình thức lễ nghi tế toái của tôn giáo, Đạo mà như thế thì thực là Đạo sống vậỵ

Sống Đạo là sống văn hóa trog ý nghĩa đẹp nhất của nó. Và Đạo Sống chính là Đạo như nguồn sống văn hóa nàỵ Tôi tin là bạn đọc có thể thấy được cả hai trong tác phẫm “Những Nét Văn Hóa của Đạo Phật” ở đâỵ

Giữa lúc Đạo Phật Việt Nam đang bị chìm ngập vào một hoàn cảnh khắc nghiệt của thời thế và vào những hình thái sinh hoạt tín ngưỡng nhiều khi không còn khế hợp với cảm xúc của con người ngày nay, tác phẫm này ra đời là một đóng góp thiết thực. Càng thiết thực hơn khi chúng ta có thể có những công trình đề cập đến những đóng góp của Đạo Phật trong văn hóa dân tộc qua lịch sử nhưng thực là hiếm hoi để có một tác phẩm nói đến văn hóa của Đạo Phật như một thực tại sống động của đời sống con-người-ở-đây-và-bây-giờ như tác phẩm nàỵ

Chính tính cách thiết thực đó mà tôi xin được giới thiệu tác phẩm này đến bạn đọc mười phương với tất cả tấm lòng trân trọng tác phẩm và biết ơn tác giả.

Houston, mùa Phật Đản 2537

Thích Nguyên Hạnh


KhiCongTamPhap_1_Book


--- o0o ---

Vi tính: Chân Diệu Lan

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/02/2014(Xem: 18427)
Chiều hôm nay, tôi đang ở trong cốc thì Thầy Viện Trưởng đến, Thầy gọi tôi và đưa cho tôi quyển sách này, Thầy nói: "Thầy thấy Từ Đức thích dịch sách của ngài Đạt Lai Lạt Ma nên Thầy mua quyển sách này, con đọc rồi dịch, khi nào xong thì đưa cho Thầy!" Tôi thích quá, thật khó tả. Tôi chỉ mĩm cười, khẻ nói "Dạ" và cầm lấy quyển sách. Thế là ngay hôm ấy tôi liền bắt tay vào dịch những dòng đầu tiên của quyển sách để lấy ngày, 20 – 11 – 2010.
10/02/2014(Xem: 17447)
Lama Thubten Yeshe sinh năm 1935 tại Tây Tạng. Mới sáu tuổi, Ngài đã vào học tại Sera Monastic University ở Lhasa, một trong những tu viện lớn và nổi tiếng của Tây Tạng. Ngài học tại đây tới năm 1959
05/02/2014(Xem: 18747)
Bất cứ ai sinh ra trong thế gian này đều nghĩ rằng trong ta phải có một cái linh thiêng, làm chủ mạng sống của mình và gọi đó là “Cái Tôi” tức là bản Ngã. Từ đó những vật sở hữu của họ thì gọi là “Cái Của Tôi”. Khi cảm tính về “Cái Tôi” hiện lên thì tính ích kỷ, tính tư lợi hay là tự xem ta là trung tâm (self-centered) cũng bắt đầu bùng phát.
16/12/2013(Xem: 15677)
Dân tộc ta thừa hưởng nhiều tư tưởng triết lý tôn giáo cũng như chính trị và văn học của nhân loại; khởi đầu là tư tưởng Nho gia, Đạo giáo rồi đến Phật học. Suốt thời kỳ dài, "Tam giáo đồng nguyên" đã hòa hợp khá nhuần nhuyễn để dân tộc ta có một nếp sống hài hòa từ văn hóa đến kiến trúc, nghi lễ, chính trị, giáo dục, giao tế... Vì thế, những di tích còn để lại ngày nay ở các tỉnh phía Bắc và miền Trung, mỗi làng đều có Đình, Miếu và chùa trong một quần thể mỗi xã, huyện.
16/12/2013(Xem: 12450)
Giới là sự khác biệt căn bản giữa người nam và người nữ, liên quan đến giới tính, đến vai trò và vị trí xã hội của họ. Vấn đề bình đẳng giới được nêu lên nhằm giải quyết sự thiệt thòi của phụ nữ vì bị đối xử phân biệt
14/12/2013(Xem: 30249)
Năm 2006, khi tôi viết thư xin phép Thiền sư Bhante H. Gunaratana để dịch quyển tự truyện cuộc đời ngài, Hành Trình Đến Chánh Niệm (Journey To Mindfulness), Thiền sư không những đã từ bi hoan hỷ cho phép, mà còn giới thiệu về quyển sách mới của ngài, Eight Mindful Steps To Happiness. Do duyên lành đó hôm nay bản dịch của quyển sách trên được đến tay độc giả với tựa Bát Chánh Đạo: Con Đường Đến Hạnh Phúc.
11/12/2013(Xem: 19112)
Nói về kiếp người Đức Lão Tử đã thốt lên rằng: “Ngô hữu đại hoạn, vị ngô hữu thân, Ngô nhược vô thân, hà hoạn chi hữu?” Dịch : “ Ta có cái khốn khổ lớn, vì ta có thân, Nếu ta không thân thì đâu có khổ gì ?”
11/12/2013(Xem: 17534)
Đi tu không có nghĩa là phải vào chùa, cạo bỏ râu tóc mà phải được hiểu rộng rãi hơn nhiều! Đi tu là một quá trình khám phá tâm linh. Chúng ta học ứng dụng những lời Phật dạy trong đời sống hàng ngày của mình. Tu là chuyển hóa bản thân, từ vô minh đến trí tuệ, là tìm kiếm, khám phá con đường đưa đến hạnh phúc và an lạc.
11/12/2013(Xem: 31654)
Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác là con nhà họ Đới ở Châu Ôn . Thuở nhỏ học tập kinh, luận và chuyên ròng về phép Chỉ quán của phái Thiên Thai. Kế, do xem kinh Duy Ma mà tâm địa phát sáng. Tình cờ có học trò của sư Huệ Năng là thầy Huyền Sách hỏi thăm tìm đến. Hai người trò chuyện hăng say.
10/12/2013(Xem: 21721)
Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với câu chuyện đời của Đức Phật. Chúng ta biết rằng thái tử Siddhattha đã rời bỏ cung điện lộng lẫy của vua cha, để bắt đầu cuộc sống không nhà của người lữ hành lang thang đi tìm con đường tâm linh, và sau nhiều năm tu hành tinh tấn, Ngài đã đạt được giác ngộ khi đang nhập định dưới gốc cây bồ đề. Sau khi xả thiền, Đức Phật đã đi đến thành phố Benares, giờ được gọi là Varanasi. Ở đó, trong Vườn Nai, lần đầu tiên Ngài thuyết pháp về những gì Ngài đã khám phá về con đường đi đến hạnh phúc toàn vẹn. Lời dạy của Đức Phật rất đơn giản nhưng sâu sắc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567