Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiếng chuông Hàn Sơn Tự.

09/04/201311:58(Xem: 3780)
Tiếng chuông Hàn Sơn Tự.

Tiếng chuông Hàn Sơn Tự

Thích Chiếu Sáng

Chùa Hàn Sơn không dựa vào vách núi như bao nhiêu ngôi già lam cổ kính ở trung Quốc, mà nó nép mình trong một thôn xóm nghèo ở vùng ngoại ô của thành phố Tô Châu. Chúng tôi bước lần theo con đường tráng nhựa quanh co dẫn đến cổng chùa. Phía trướccó một con sông nhỏ trong xanh, khơi nguồn từ Bắc kinh, chảy thẳng đến Hàng Châu, nhưng lại uốn mình qua cô tô , lửng lờ trước cổng Hàn Sơn tự. Dòng sông hiền hòa như mặc khách, êm đềm như tao nhân, ẩn hiện như câu chuyện cổ tích, nhưng lại rực sáng bằng thi ca và lưu truyền cho hậu thế. Nhờ đó mà dòng sông đã tô đậm sắc màu cho ngôi già Lam thêm phần thi vị. Cầu Giang thôn ở trước chùa như kết nối hài hòa giữa cảnh sắc thiên nhiên và bàn tay sáng tạo của con người. Chiếc cầu đá được xây dựng theo hình bán nguyệt nằm vắt mình trên sông. Nếu vui tính, du khách bước lên cầu sẽ phóng tầm nhìn xa hơn, có thể ngắm hai hàng cây phong, xa hơn nữa là những ngôi nhà lầu cao ngất ngưỡng như thách thức với thời đại, cùng sánh vai bước vào thế kỷ hai mươi mốt. Thời gian trôi qua, ngôi chùa vẫn đứng bên sông, âm thầm ghi vào nỗi nhớ từng trang lịch sử, lặng lẽ chứng kiến bao cuộc thăng trầm dâu bể của đất nước Trung Hoa. Ngôi chùa đã soi bóng dưới dòng sông, hóa thân thành bức tranh thủy mặc, phong sương với gió, hòa quyện vào mây, trơ gan cùng năm tháng.

“Bong...bong...bong...”Tiếng chuông thanh thoát trầm hùng, vọng vang vào tai du khách, lòng chúng tôi như lắng đọng mọi suy tư, lâng lâng theo tiếng chuông, xóa tan niềm vương vấn. Từ những tâm tình riêng lẻ, chúng tôi gợi nhớ những giai thoại thi ca, tiếng chuông đã thoát xác hiện thân vào cuộc sống, nhắc nhở thế nhân quay về với thực tại.

Ngày xưa Trương Kế là một trong những khách thuyền đi tìm cảm hứng thi ca, ông đã sống dưới màn trời đầy sương, trong bóng đêm ông đã lắng nghe tiếng của chim kêu, lặng nhìn ánh trăng khuất dần ở trời xa. Tất cả cảnh sắc của thiên nhiên đã hội tụ trên sông, hồn thơ liền trỗi dậy, nhất hình ảnh của bác ngư phủ bên ánh đèn lập lòe, khiến cho hai hàng cây phong ở ven bờ như đượm nét sầu vương. Là thi nhân không thể gát bút ngẫng người ra mãi, khi cảnh sắc xung quanh đã biến thành nàng thơ kiều diễm. Thế là Trương kế vội phóng bút thành thơ.

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên

Giang phong ngư hỏa đối sầu miên

Tạm dịch:

Nhạn kêu trăng lặn đêm sương

Bến sông ánh lửa sầu vương thẩn thờ

Tiếc thay cảm hứng của ông bỗng nhiên biến mất, bao nhiêu mỹ từ đã chắp cánh bay xa, để lại một mình ông trên chiếc thuyền độc mộc, sự bế tắt của ngôn từ khiến ông mệt lả, chập chờn ru vào giấc ngủ.

Cùng lúc đó Hòa thượng trụ trì chùa Hàn Sơn, sau giờ tọa thiền đang tản bộ dưới hiên chùa thanh vắng, bóng đêm trường tĩnh mịch, ánh trăng lung linh tỏa chiếu, các vì sao đang ẩn hiện mập mờ, tạo nên không gian lôi cuốn thi nhân. Hòa Thượng cũng phải miên man phóng bút.

Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung

Bán tợ câu ngân bán tợ cung

Tạm dịch:

Canh tư trăng sáng mông lung

Nữa hình câu móc, như cung nữa vành

Đến đây ý thơ không tuôn chảy nữa, hòa thượng cố tìm lại một chút gì đó cảm xúc của hồn thơ, để điểm xuyết bức tranh thi ca còn đang dang dở. Thế là ngài đi tản bộ dưới ánh trăng, tâm hồn lại vương vấn nỗi niềm riêng. Lang thang trong vườn chùa, đêm càng lúc càng khuya, hòa thượng càng lúc càng bít lấp. Ngài bèn buông bút để cõi lòng nhẹ rơi vào vực thẳm của thất vọng chán chường. Biết được tâm trạng của sư phụ, chú tiểu âm thầm lẽo đẽo theo sau, phát họa lại bức tranh của đêm trăng chưa được hoàn hảo. Chẳng những chú đã vượt trội hơn sư phụ về mỹ từ, mà còn biểu hiện sâu sắc hơn về nội dung. Sức sống của màn đêm đã được tái tạo trở lại qua hai câu thơ của chú tiểu.

Thùy bả kim bôi thân lưỡng đoạn

Bán trầm thuỷ để bán phù không

Tạm dịch:

Ai đan tâm xẻ trăng vàng

Bóng chìm dưới nước, nữa vầng trên không

Lắng nghe người đệ tử làm thơ, hòa thượng như được một thứ gì đó đã thoát khỏi tầm tay. Không ngờ hai câu thơ của chú tiểu quá trát tuyệt, vừa có trăng có đáy nước có hư không, vừa diễn đạt ý trừu tượng bằng hình ảnh cụ thể hóa vầng trăng bị xẻ làm đôi. chỉ cần vài nét chấm phá trong bài thơ của chú tiểu, đọc giả có thể liên tưởng đến một bức tranh hoàn hảo của một đêm trăng. Niềm vui cũng từ đó mà nhân đôi, đến nỗi không thể tự kềm chế, thế là hai Thầy trò leo lên lầu dộng đại hồng chung đang lúc nữa đêm. Tiếng chuông ngân vang theo gió, đồng vọng đến bến sông, khiến cho Trương Kế giật mình tỉnh giấc. Tiếng chuông như phá tan sự tĩnh mịch của đêm khuya, nối lại dòng suy tư đang đứt khoảng, Trương Kế đã xuất thần làm nên kiệt tác lưu lại cho đời sau.

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên

Giang phong ngư hỏa đối sầu miên

Cô tô thành ngoại Hàn Sơn tự

Dạ bán chung thinh đáo khách thuyền

Tạm dịch:

Nhạn kêu trăng lặn đêm sương

Bến sông ánh lửa sầu vương thẩn thờ

Hàn Sơn vẹn ngoại cô tô

Tiếng chuông lay tỉnh giấc hồ nữa khuya

Tiếng chuông ngày xưa lay tỉnh khách tao nhân, nhưng bây giờ là tiếng chuông của buổi chiều nhạt nắng. Ai cũng giật mình vì chỉ mới đó mà thời gian lại trôi qua thật nhanh, chúng tôi vội vào đại hùng bảo điện lễ phật, phía sau chánh điện là nơi tôn thờ hai vị Hàn Sơn và Thập Đắc. Ngôi chùa này sở dĩ được nổi tiếng trong và ngoài nước, chính là do sử thoại của hai vị hoá thân này.

Hàn Sơn lai lịch như thế nào không ai biết rõ,người ta chỉ biết nhà của ông gần chùa và thường xuyên qua lại làm bạn với Hòa Thượng Phong Can. Một hôm Hòa Thượng Phong Can lượm một chú bé mang về đặt tên là Thập Đắc. Hằng ngày Hàn Sơn và Thập Đắc thường lượm cơm thừa rơi rớt ở sàn rửa chén, phơi khô để dành ăn. Hai vị và Hòa Thượng Phong Can rất tâm đầu ý hợp, họ thường rong chơi trên khắp nẻo đường và làm thơ khi gặp cảnh bức xúc. Một bữa nọ,Thập Đắc đến trước tượng của tôn giả Kiều Trần Như nói:“đứng đây làm gì vậy đồ tiểu căn bại chủng?”Lần sau chẳng ai bảo ông lên chánh điện cúng phật nữa. Hôm khác ông thấy chim chóc thường đến ăn cơm cháo của chùa, Thập Đắc mới đánh mắng tượng thần già lam:“ông là vị thần hộ trì tam bảo,tại sao không đuổi loài chim chóc bay đi?Thần già lam báo mộng cho Tăng chúng chùa, Thập Đắc đã đánh mắng ông.”Mọi người hết sức ngạc nhiên nhưng chẳng ai dám nói gì cả. Cũng vào năm đó Hòa Thượng Phong Can xuống núi hành cước, trong dịp tình cờ trị lành bịnh tuần phủ Thái Châu. Nhân lúc tuần phủ muốn chiêu hiền đãi sĩ, Hòa Thượng mới bảo ông đến chùa Quốc Thanh tìm hai vị Hàn Sơn và Thập Đắc. Hai vị này chính là hóa thân của Bồ tát văn Thù và Phổ Hiền. Điều đặc biệt là họ không màng đến chuyện danh lợi của thế gian, nếu mời được họ, ông có thể trị nước an dân. Sau đó không lâu, Tuần phủ đến chùa tìm Hàn Sơn và Thập Đắc, trong lúc bái kiến ông còn nghe văng vẳng bên tai lời của hai vị,“Đối diện với Di Đà mà chẳng biết, lễ lạy ta làm chi?”Thế rồi hai vị cổng nhau trốn vào núi, từ đó về saukhông còn ai biết tông tích của họ ở đâu.

Phía sau là Bảo Tháp Phổ Minh cao năm tầng, du khách thường đứng trên tầng cao nhất của Bảo Tháp dõi trông về phía xa, ngắm nhìn toàn quang cảnh của chùa Hàn Sơn. Bên ngoài xung quanh của Bảo Tháp người ta đã lưu lại những bút tích các nhà thư pháp nổi tiếng như là: Tánh không, Tống vương..v.v. Điều hết sức ngạc nhiên, các nhà thư pháp đều viết về bài thơ“Phong kiều Dạ Bạt ”của Trương Kế. Từ phía Trước nhìn vào ở bên trái là Pháp Đường, bên trong cũng trưng bày bút pháp “Phong Kiều Dạ Bạt”. 

Giờ đây tuy xa rồi nhưng bên tai chúng tôi vẫn vang mãi tiếng chuông chùa Hàn Sơn, Trương Kế nhờ tiếng chuông này đã làm một bài thơ, để lại ấn tượng cho người đời nhớ mãi. Chỉ một bài thơ thôi, mà tên tuổi của ông được lưu danh đến ngàn sau, người ta nhắc đến Trương Kế đều không quên vầng thơ trát tuyệt của ông. Vầng thơ đó Trương Kế đã xuất thần sáng tác, đồng thời chiếm vị trí độc tôn trong làng thi ca Trung Quốc. Các thi nhân nổi tiếng vào đời Đường như Lý Bạch và Đỗ Phủ cũng làm thơ nói về chùa Hàn Sơn, nhưng cũng thừa nhận thơ của họ không thể nào sánh bằng kiệt tác của Trương Kế.

---o0o---

Ý kiến bạn đọc
06/11/201918:34
Khách
Xin phép trang nhà Quảng Đức cung cấp giúp địa chỉ email liên hệ với tác giả bài viết rất hay với ngôn từ lung linh, hư ảo như vầng trăng trong bài thơ.
Rất cảm ơn trang nhà Quảng Đức !
trân trọng,
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/01/2016(Xem: 13809)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
24/06/2015(Xem: 30582)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
15/06/2015(Xem: 23348)
Yếu chỉ tu tập & hành đạo. Tác giả Thích Thái Hòa
15/05/2015(Xem: 25939)
Thể theo lời yêu cầu của các bạn Đạo, tôi chọn một số bài nói chuyện về Phật pháp của tôi tại Tổ Đình Từ Quang ở Montréal và một vài nghi thức tụng niệm để in thành cuốn sách này, với hy vọng phổ biến Phật pháp. Cuốn sách được hình thành trong dịp Tết Canh Thìn, nhưng phải đợi đến Tết Dương Lịch 2001 mới đánh máy xong. Trong thời gian chờ đợi này, tôi đã cẩn thận kiểm điểm lại nội dung từng bài, nhưng chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, những mong các bậc cao minh từ bi chỉ điểm cho. Montréal, Tết Dương lịch 2001 Hiển Mật, Đỗ Hữu Trạch
12/05/2015(Xem: 22180)
Video: Những Hiểu Lầm về Đạo Phật
01/05/2015(Xem: 30112)
Một tập sách với tựa đề như trên, trong xã hội hiện nay, không có gì đặc biệt; so với Kito giáo tại Việt Nam, cũng là việc làm bình thường, vì hàng năm, một số giáo xứ thường xuyên tổ chức các lớp hướng dẫn giáo lý và hôn nhân cho thế hệ trẻ từ tuổi 18 trở lên; nhưng đặc biệt của tập sách nầy nằm trong hai lĩnh vực: 1/ Phật giáo chưa từng xuất hiện sách hoặc lớp hướng dẫn về hạnh phúc gia đình, mặc dù có những kinh điển nói qua vấn đề nầy, quá tổng quát, chưa thích ứng với từng cảnh trạng của từng xã hội biến thái khác nhau hiện nay. 2/ Sách không trực tiếp dạy giáo lý như các lớp “giáo lý và hôn nhân” của các giáo xứ, nhất là giòng Tên; nhưng sách hướng dẫn tháo gỡ nhiều vấn đề mắc mứu liên quan đến tâm lý xã hội và đạo đức nhà Phật.
05/01/2015(Xem: 21317)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
05/01/2015(Xem: 18875)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
22/11/2014(Xem: 28078)
Có người khách mang đến cho tôi một gói quà. Bên trong là hai quyển sách: Đất nước Cực lạc, Ánh sáng và bóng tối. Tác giả: Liên Hoa Bảo Tịnh. Khoảng thời gian sau này, tôi có rất ít điều kiện để đọc thêm được những sách mới, nên không ngạc nhiên nhiều lắm với tác giả lạ. Dẫu sao, trong tình cảnh ấy mà được đọc những sách lạ, nhất là được gởi từ phương trời xa lạ, thì cũng thật là thú vị. Rồi càng đọc càng thú vị. Một phần vì có những kiến giải bất ngờ của tác giả, về những điểm giáo lý mà mình rất quen thuộc. Quen thuộc từ khi còn là một tiểu sa-di. Nhưng phần khác, thú vị hơn, khi biết rằng Liên Hoa Bảo Tịnh cũng là Đức Hạnh – đó là chú XUÂN KÝ, một thời ở Già-lam cùng với chú Sỹ.
15/11/2014(Xem: 20213)
Nên lưu ý đến một cách phân biệt tinh tế về thứ tự xuất hiện của hai kiến giải sai lầm trên. Đầu tiên là kiến giải chấp vào tự ngã của các nhóm thân tâm, và từ cơ sở này lại xuất phát kiến giải chấp vào tự ngã của cá nhân. Trong trường hợp nhận thức được Tính không thì người ta sẽ nhận ra Tính không của nhân ngã trước; bởi vì nó dễ được nhận ra hơn. Sau đó thì Tính không của pháp ngã được xác định.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]