Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Viên Ngọc Quý (sách pdf của HT Thích Thái Hòa)

02/11/202208:33(Xem: 18339)
Những Viên Ngọc Quý (sách pdf của HT Thích Thái Hòa)


Nhung vien ngoc quy-ht thai hoa
Thich_Thai_Hoa_2
MỤC LỤC

 

TÁM LÝ DO ĐỨC PHẬT THUYẾT GIẢNG GIÁO NGHĨA ĐẠI THỪA.. 1

VÔ TRƯỚC HẠNH.. 11

ĐẠO TỪ KẾT KHÓA.. 61

THIỆN VÀ ÁC DƯỚI CÁI NHÌN PHẬT GIÁO
ĐẠI THỪA.. 70

HIỂU VỀ SỰ CẦU NGUYỆN TRONG PHẬT GIÁO.. 78

Ý NGHĨA VÀ NỘI DUNG PHÁP HÀNH BẤT HOẠI HỒI HƯỚNG.. 83

PHÁP NGỮ.. 108

PHÁP NGỮ.. 120

PHÁP NGỮ.. 132

KINH PHẬT LÀ DO ĐỨC PHẬT NÓI 142

NIẾT BÀNTRONG PHẬT GIÁO.. 157


 

 


 

TÁM LÝ DO ĐỨC PHẬT
THUYẾT GIẢNG GIÁO NGHĨA ĐẠI THỪA

Trích Bài 7: Lịch sử tư tưởng triết học Phật giáo Đại thừa,
Hòa thượng Thích Thái Hòa giảng cho Tăng Ni sinh

học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà nội.



Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận:

"Bất ký diệc đồng hành

Bất hành diệc thành tựu

Thể, phi thể, năng trị

Văn dị bát nhân thành".

Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó là cách nói thiếu tu hành, thiếu học hỏi, thiếu nghiên cứu và vu khống, chụp mũ.

Điểm thứ nhất là: Bất ký, nghĩa là không dự báo trước. Nếu kinh điển Đại thừa, như một số người cho rằng, là do một số người về sau tạo ra sau khi Phật diệt độ để phá hoại Chánh pháp, thì tại sao trước đó đức Thế tôn không dự báo để cho người sau biết rằng đây là một sự kiện đáng kinh sợ sẽ xảy ra. Rõ ràng đức Phật biết hết, thì đáng lẽ Ngài biết kinh điển Đại thừa do đám ngoại đạo tạo ra để phá hoại Chánh pháp thì Ngài phải dự báo trước; đằng này, đức Phật không hề dự báo điều này. Cho nên rõ ràng kinh điển Đại thừa chính là do đức Phật nói chứ thiên ma ngoại đạo không thể nói và không bao giờ nói được, không thể nào nói được. Thiên ma ngoại đạo làm gì mà nói là có Phật tính, Phật mà con chưa biết thì làm sao biết được Phật tính; Phật mà chưa biết làm gì nói đến Pháp thân; Phật mà chưa biết làm gì nói đến Phật thể; Phật mà chưa biết làm gì nói đến Phật tác dụng. Cho nên ngoại đạo không thể nói; hàng Thanh văn không thể nói; hàng Duyên giác không thể nói; hàng Bồ tát cũng không thể nói. Kinh điển Đại thừa chỉ có chính Phật mới nói.

Thứ hai là: Đồng hành, nghĩa là giáo lý Đại thừa đồng hành với căn bản giáo lý được ghi lại ở trong Nguyên thủy, trong các kinh điển nền tảng, trong A-hàm, trong các văn hệ Nikāya. Chúng ta nhìn sâu vào trong các kinh điển thuộc văn hệ A-hàm, Nikāya thì sẽ thấy trong đó nội hàm kinh điển Đại thừa. Trong Thanh văn tạng hàm chứa cả Đại sĩ tạng, Mật chú tạng. Cho nên Thanh văn tạng, Đại sĩ tạng hay Bồ tát tạng, Mật tạng đều do đức Phật nói. Ngoại đạo không thể nói được các kinh điển này.

Thứ ba là: Bất hành. Những gì mà kinh điển Đại thừa nói là sâu thẳm, là rộng lớn, không phải là cảnh giới của ngoại đạo có thể tư duy đến được. Những cảnh giới mà kinh điển Đại thừa đề cập chưa từng thấy trong các kinh điển ngoại đạo và giả sử chúng ngoại đạo có đề cập đến thì cũng không phải là chỗ tin tưởng và chỗ đáng tin tưởng. Do đó, kinh điển Đại thừa chính là do Phật thuyết.

Thứ tư: Thành tựu. Nếu bảo rằng giáo nghĩa Đại thừa do đức Phật khác chứ không phải đức Phật Thích-ca, đức Phật lịch sử, thuyết là không đúng. Đại thừa vẫn là đức Phật Thích-ca thuyết vì chư Phật đồng với đức Phật Thích-ca một thể tính giác ngộ, cùng một bản nguyện độ sinh. Cho nên những gì chư Phật thuyết cũng chính là đức Phật Thích-ca-mâu-ni thuyết, và những gì là đức Phật Thích-ca-mâu-ni thuyết đồng thời cũng là chư Phật mười phương ba đời đồng thuyết. Điều này, nếu chúng ta đọc trong văn hệ A-hàm, Nikāya sẽ thấy, nhất là trong Đại bản duyên.

Thứ năm là: Thể. Đã nêu kinh điển Đại thừa thì phải có thực thể của kinh ấy. Nếu hiểu thực thể thì phải hiểu thực thể của kinh điển Đại thừa chính do Phật thuyết chứ không thể hiểu kinh điển Đại thừa ngoài thực thể Phật thuyết này. Thể của Vô thường, thể của Không, thể của Vô ngã là gì. Tất cả những điều đó đều chứa đựng ở trong kinh điển Đại thừa. Vì vậy mà nhìn vào thể tính của kinh thì biết rằng kinh điển Đại thừa ấy chính là do đức Phật thuyết chứ không thể là ngoại đạo thuyết hay những hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát thuyết.

Thứ sáu là: Phi thể. Nếu không có giáo nghĩa Đại thừa thì giáo nghĩa Thanh văn không thể tồn tại vì Thanh văn do đức Phật nói. Mà đức Phật nói giáo nghĩa Thanh văn là từ nơi thực thể giác ngộ của Phật và từ nơi thực thể giác ngộ của Phật mà Phật nói về giáo nghĩa Thanh văn. Cho nên không có Phật thì không có Thanh văn. Thanh văn là học trò của Phật. Không có thầy thì làm gì có học trò. Học trò được thành là do thầy tác thành; Thanh văn là do Phật tác thành. Mà Phật nói giáo nghĩa Thanh văn, nghĩa là Ngài đã thành Phật mới nói. Ngoài Phật, không ai nói giáo nghĩa Thanh văn. Thành Phật, giáo nghĩa ca ngợi sự thành Phật và ca ngợi toàn giác, công hạnh của Bậc toàn giác, đó là giáo nghĩa Đại thừa. Chẳng lẽ ngoại đạo đi ca ngợi Phật sao, làm gì có ngoại đạo nào đi ca ngợi Phật. Cho nên bất cứ điều gì mà đức Phật dạy suốt bốn mươi chín năm theo tư liệu Bắc truyền, bốn mươi lăm năm theo tư liệu Nam truyền đều là chân lý. Các nhà Phật học phán giáo rằng thời kỳ từ năm thứ nhất sau Thế tôn thành đạo cho đến năm thứ mười hai là thời kỳ đức Phật nói về Tạng giáo hay Thỉ giáo, đó là kho tàng giáo lý Nguyên thủy. Sau này một số học giả phân tích và chia chẻ ra giáo lý Nguyên thủy là giáo lý mà từ khi Phật thành đạo đến khi Niết bàn và một trăm năm sau Phật giáo bộ phái phân hóa, phân tích này chỉ có giá trị nghiên cứu của các học giả nhưng không đúng với giáo lý đức Phật dạy, không đúng với lịch sử đức Phật thuyết pháp. Các nhà phán giáo của Phật giáo có thẩm quyền thì nói rằng những gì đức Phật nói sau khi Ngài chuyển vận Pháp luân tại vườn Nai cho đến mười hai năm thì gọi là thời kỳ Phật giáo nguyên thủy, là Tạng giáo, là Thỉ giáo. Các thầy các cô phải nhớ những điểm này để đừng bị cái đám học giả nghiên cứu bên ngoài đánh lừa, rồi đi lạc hướng, rồi bắt chước họ nói thuội. Cho nên phải học hành đâu ra đó, cái gì biết thì nói, không biết thì thôi, nghiên cứu cho kỹ lưỡng rồi nói, đừng có nói thuội người ta. Đương nhiên, người đời nghiên cứu, họ ưa nói gì thì nói, đó là chuyện của họ. Nhưng mình là người trong nhà, phải biết thấu đáo.

Thứ bảy là: Năng trị. Những ai mà y chỉ vào kinh điển Đại thừa để tu tập đều có thể chứng đắc được Trí tuệ vô phân biệt. Và pháp đó có khả năng đối trị, chuyển hóa các loại phiền não chướng và sở tri chướng. Và pháp Đại thừa không tu thì thôi, tu là có an lạc ngay trong mỗi hành động của chính mình, trong mỗi động tác của chính mình. Vì lợi ích chúng sinh mà tu, hành động vì lợi ích chúng sinh mà làm, chỉ chừng đó thôi thì mỗi hành động của người tu đã có một giá trị vượt hẳn mọi hành động của thế gian, của ngoại đạo. Vì lợi ích của chúng sinh mà tụng kinh, vì lợi ích của chúng sinh mà ngồi thiền, vì lợi ích của chúng sinh mà niệm Phật, vì lợi ích của chúng sinh mà ăn chay, vì lợi ích của chúng sinh mà xây chùa, vì lợi ích của chúng sinh mà tạc hình tượng Phật, Bồ tát, Thánh hiền, vì lợi ích của chúng sinh mà chú các đại hồng chung…, tất cả là vì lợi ích chúng sinh nên nghĩ tới những hành động đó là đã có hạnh phúc rồi. Nên pháp Đại thừa là pháp năng trị, có nghĩa là có khả năng trị liệu tất cả những loại phiền não, những sở tri chướng để đưa tới hạnh phúc, đưa tới an lạc ngay trong đời này và vô lượng kiếp về sau trong dòng chảy của đại hạnh và đại nguyện. Do đó phải tin rằng Đại thừa chính do Phật thuyết, bởi vì đức Phật nói Ngài ra đời vì lợi ích chúng sinh, vì lợi ích cho đa số. Như trong văn hệ A-hàm và Nikāya xác định sự ra đời của đức Phật: có một vị ra đời lợi ích cho đa số, an lạc cho đa số, đó là Như lai, A-la-hán, Bậc chánh biến giác. Và Ngài ra đời để làm gì, để hàn gắn lại những gì mà thế gian đã đổ vỡ, để dụng đứng lại những gì mà thế gian đã bị xiêu vẹo, bật ngọn đèn cho mọi người thấy và chỉ đường cho mọi người đi. Cho nên sự có mặt của đức Thế tôn cũng như giáo pháp do Ngài tuyên thuyết có tác dụng năng trị, tức là trị liệu những nhận thức sai lầm của chúng sinh cho chúng sinh để đưa chúng sinh tới với trí tuệ của Bậc toàn giác.

Thứ tám: Nghĩa khác văn. Ý nghĩa Đại thừa được nói trong các kinh điển thật sâu xa, thâm diệu, rộng lớn, không thể dựa vào văn từ để mà nắm bắt ý nghĩa. Nếu chúng ta phân tích văn từ để hiểu giáo pháp của Phật thì càng phân tích là càng sai vì giáo pháp, chân lý không nằm nơi ngôn ngữ. Trái mít sinh ra từ cây mít, nhưng chúng ta chẻ cây mít ra để tìm trái mít thì vĩnh viễn không bao giờ tìm thấy. Cây mít sinh ra, lớn lên từ hạt mít nhưng phân tích, chia chẻ để tìm cây mít trong hạt mít thì tìm hoài không thấy bởi vì thể tính của cây mít vốn không, đủ duyên thì nó khởi, đúng thời nó hiện ra. Cho nên nếu chúng ta chỉ hiểu ngôn ngữ, phân tích ngôn ngữ để tìm giáo nghĩa Phật dạy trong đó thì tìm mấy cũng không ra. Văn chỉ là biểu tượng để diễn tả ý tưởng. Các kinh điển thường nói "nhất thiết tu-đa-la như tiêu nguyệt chỉ", hết thảy kinh điển như ngón tay chỉ mặt trăng, thông qua ngón tay mà thấy mặt trăng, nhưng phân tích ngón tay để thấy mặt trăng thì vĩnh viễn không thấy. Có nhiều người tìm mặt trăng nơi ngón tay chỉ mặt trăng và tìm hoài không ra thì bắt đầu phỉ báng. Đó là lý do nhiều người phỉ báng giáo nghĩa Đại thừa, là vì do ngu mà phỉ báng, do tà kiến mà phỉ báng. Nên chỉ có ngoại đạo mới phỉ báng Đại thừa. Vì Đại thừa nói tất cả chúng sanh đều có Phật tính, đều có khả năng thành Phật và giáo nghĩa Đại thừa là làm lợi ích chúng sinh, vì chúng sinh mà làm lợi ích, mà dùng đủ mọi phương tiện để nói lên giá trị chân nghĩa này, ý nghĩa chân thật này.

Đó là tám nguyên nhân, tám lý do khiến đức Phật nói giáo nghĩa Đại thừa.



pdf icon-2

Những Viên Ngọc Quý_HT Thích Thái Hòa_2022




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/08/2010(Xem: 3073)
Thảm trạng môi trường và xã hội đổ vở bây giờ lan rộng và khắp hành tinh trong sự đo lường. Những sự cải tiến kỷ thuật đã cung ứng cơ sở cho một loại tiến triến mới của xã hội, vượt khỏi những biên giới của văn hóa, tôn giáo, và tâm linh. Tuy thế, kỷ thuật không phải hoàn toàn được điều khiển trực tiếp bởi lý trí, nhưng bởi những động lực nội tại của xã hội học và tâm lý học. Những khuynh hướng bản năng của loài người có những phương diện phá hoại cũng như tốt đẹp. Chúng ta có thể ca tụng kiến thức nghệ thuật, khoa học hay lòng vị tha của chúng ta bao nhiêu đi nữa, thì chúng ta không thể quên đi sự thật rằng chúng ta cũng là những động vật nguy hiểm nhất.
31/08/2010(Xem: 2976)
Một sự phối hợp những nhân tố đang phá hoại một cách nhanh chóng vòng sinh vật – hệ thống sinh thái địa cầu hợp nhất tất cả những chủng loại sinh sống, sự liên hệ và sự tác động qua lại với đá, đất, nước và khí quyển. Hệ thống khí hậu trái đất đã từng cung ứng nền tảng cho nền văn minh nhân loại đến sự phát triển hơn 5.000 năm qua. Xã hội chúng ta bây giờ mới chỉ bắt đầu nhận ra chiều sâu của sự liên hệ hổ tương sinh thái này. Sự khủng hoảng khí hậu mà chúng ta đang đối diện là nguyên nhân bởi sự vượt quá giới hạn khí carbon kết quả từ sự tiêu thụ nhiên liệu lỗi thời (than đá, dầu mõ,…), và từ sự tàn phá rừng. Điều chỉnh hành động là khẩn thiết cho sự tồn tại của chính loài người chúng ta. Tất cả những kỷ thuật chúng ta cần để tránh khí hậu tan vở đã hiện diện rồi.
30/08/2010(Xem: 5788)
Chưa bao giờ con người ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên đề mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình. Từ thuở chào đời, hình như định mệnh buộc nó phải đối mặt với một thế giới cứ muốn cắt giảm năng lực của mình, khi nó nhận ra hai bàn tay mình thì quá ngắn, hai chân mình lại quá chậm để có thể bắt kịp cái dòng chảy xiết của sinh tồn để hưởng thụ cuộc sống, nó phải nuôi dưỡng cơ thể.
30/08/2010(Xem: 6886)
Không giống những tôn giáo khác và những lý thuyết hiện đại về kinh tế học, đạo Phật cho rằng kinh tế học gắn liền với đạo đức học và lý thuyết về hành vi (kamma). Mặc dù nhiều nhà kinh tế xem kinh tế học là một khoa học “tích cực” của một loại hiện tượng xã hội, nhưng dưới cái nhìn của đạo Phật, kinh tế học có quan hệ đặc biệt với đạo đức học. Lý thuyết kinh tế học của đạo Phật nhấn mạnh quan điểm về sự chủ tâm (cetan(, tác ý) trong việc giải thích tư cách đạo đức con người. Trong bài này, tác giả cố gắng giải thích vài khái niệm quan trọng trong kinh tế học như đã được mô tả trong kinh điển đạo Phật để cho thấy rằng đạo đức học đóng một vai trò quan trọng trong kinh tế học và do đó có một tầm quan trọng lớn đối với kinh tế học và ngược lại.
30/08/2010(Xem: 7373)
Nhiều người cho rằng Phật giáo là một tôn giáo nên không có sự quan hệ với vấn đề kinh tế đó là nhận định sai lầm, bởi vì con người là một hợp thể do ngũ uẩn tạo thành chia làm hai phần là Vật chất (sắc) và tinh thần (danh). Con người không thể chỉ dựa vào tinh thần không thôi mà có thể tồn tại được, nhưng con người cũng không thể chỉ là động vật thuần nhất về kinh tế vật chất.
30/08/2010(Xem: 8303)
Đạo đức là ngành học đánh giá các hành vi con người biểu hiện qua các hành động của thân, lời và ý do lý trí, ý chí và tình cảm cá nhân thực hiện. Các nhà tư tưởng và các nhà đạo đức thường quan niệm khác nhau về giá trị, tiêu chuẩn giá trị. Dù vậy, vẫn có nhiều nét tư tưởng gặp gỡ rất cơ bản về ý nghĩa đạo đức, nếp sống đạo đức mà ở đó giá trị nhân văn của thời đại được đề cao.
30/08/2010(Xem: 7239)
Tất cả chúng ta đều mong ước sống trong một thế giới an lạc và hạnh phúc hơn. Nhưng nếu chúng ta muốn biến nó trở thành hiện thực, chúng ta phải bảo đảm rằng lòng từ bi là nền tảngcủa mọi hành động. Điều này lại đặc biệt đúng đối với các đường lối chủ trương về chính trị và kinh tế.
30/08/2010(Xem: 3474)
Trong thời gian gần đây, nhiều sách đã được viết về đề tài kinh tế và lý thuyết kinh tế, tất cả đều từ quan điểm Tư Bản hay Xã Hội chủ nghĩa. Không có một hệ thống nào lưu ý đến hay xét đến sự phát triển nội tâm của con người, một yếu tố quan trọng trong sự phát triển xã hội.
28/08/2010(Xem: 52048)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 6626)
Văn hóa và giáo dục Phật giáo là phương tiện để ươm mầm và nuôi dưỡng hạt giống bồ đề tâm trong từng cá thể xã hội. Khi những hạt mầm lớn lên sẽ là những con người đi vào cuộc đời bằng tâm bồ đề, bằng trí giác ngộ, bằng trái tim từ bi để không những thắp sáng lý tưởng cao cả của Phật Đạo, mà còn là những nhân tố hữu ích để góp phần xây dựng và phát triển xã hội.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567