Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đạo Phật với thế kỷ 21.

09/04/201313:33(Xem: 4199)
Đạo Phật với thế kỷ 21.

lotus_1

ĐẠO PHẬT VỚI THẾ KỶ 21

Thích Chánh Lạc

Loài người đang tiến dần tới ngưỡng cửa của thế kỷ 21. Một câu hỏi đang làm mọi người ưu tư lo lắng: “Kỷ nguyên mới này sẽ là gì đây đối với nhân loại?” . Những năm vừa qua, chúng ta đã rút ra được những kinh nghiệm gì, những bài học gì có thể làm cho chúng ta yên tâm hơn, tin tưởng hơn và lợi ích hơn?
Như chúng ta đều biết, những năm qua nhân loại đang lặn hụp trong biển khổ đau thương của chiến tranh, thù hận lan khắp toàn cầu, gây chết chóc đau thương biết bao sinh mạng, làm cho con người phải sửng sốt bàng hoàng khi thấy thân mạng của mình cũng chẳng có chút gì bảo đảm. Hôm nay tuy còn, nhưng ngày mai thì sao? Bao nhiêu bạn bè, bà con ruột thịt của chúng ta cứ lần lượt ra đi bởi chiến tranh và thù hận.
Chẳng những thế, hiện nay chúng ta đang phải đối mặt với những căn bệnh chết người, như đại dịch HIV/AIDS, liệt kháng, thần kinh, ung thư.v.v.. đang đe dọa con người không có cách nào chống đỡ. Trong khi Đức Phật dạy: “Thân người rất khó được” . Đã được làm thân người, mà còn có đủ các giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi... cũng rất khó. Nay ta đã được làm thân người rồi mà không có cách bảo vệ nó, như vậy có phải bi đát không?
Chúng ta được làm thân người với đầy đủ các giác quan và trí tuệ, hiểu biết hơn muôn vật, vậy mà chúng ta bị bao vây bởi một lực lượng vô minh tăm tối của con người, của chính mình đe dọa mình, như: thù hận, ganh tức, ích kỷ, hại người... đang tấn công ta từ muôn phía, khắp mọi nơi, làm cho con người không còn lối thoát. Thật đáng thương cho kiếp sống con người khi thấy mạng mình còn nhẹ hơn hạt bụi bên đường, không cách nào bảo vệ được.
Những khổ đau này do đâu? Và tại sao mà có?
Cách đây trên 25 thế kỷ, Đức Từ Phụ của chúng ta lúc mới thành đạo, tại vườn Lộc Uyển, Ngài đã tuyên bố bài pháp đầu tiên về Tứ diệu đế, đó là: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Rằng cuộc đời này là khổ, cái khổ bao trùm cả kiếp nhân sinh và muôn vật, từ vua chúa đến kẻ khốn cùng, từ người giàu sang sung sướng đến kẻ đói cơm rách áo, cái khổ không chừa một ai. Đó là sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, ân ái lìa xa khổ, oán thù gặp nhau khổ, hoàn cảnh trói buộc, cầu mong không được toại ý là khổ. Tóm lại, thân tâm bị nung đốt là khổ.
Nhà thơ Nguyễn Công Trứ viết:
“Ôi nhân sinh là thế ấy
Như bóng đèn, như mây nổi

Như gió thổi, như chiêm bao” ...

HoặcNguyễn Gia Thiềutrong“Cung oán ngâm khúc” , ông viết:

“Thuở nào khi mới chôn nhau
Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra
Khóc vì nỗi thiết tha thế sự
Ai bày trò bãi bể nương dâu
Trắng răng đến thuở bạc đầu
Tử, sinh, kinh, cụ làm nao mấy lần...”

Từ chư vị Thánh nhân đến các nhà thơ, các văn hào trên thế giới đều nói lên nỗi khổ của con người, hoặc khổ vì sanh, vì già, vì bệnh, vì chết, vì ân ái chia lìa, vì hận thù áp bức... đã đóng góp thành một kho tàng văn hóa của nhân loại vô cùng phong phú, muôn màu muôn vẻ. Nỗi khổ này trong kinh Pháp hoa, phẩm Thí Dụ, đức Phật nói rằng:“Con người đang sống trong một ngôi nhà lửa” , như sau:

“Nhà cửa cũ nát, xiêu vẹo ; loài chim loài rắn, loài thú đang bay chạy tung hoành, phóng uế nhơ nhớp, thây chết chồng chất, cắn rỉa lẫn nhau, tranh ăn tìm mồi, chạy đi chạy lại...” .Đó là những thí dụ để miêu tả sự ham muốn dục lạc, những điều phiền não tràn ngập của chúng sanh hay của con người, chỉ say mê chỗ nông cạn ở đời, trong tâm không biết tới đạo lý.

“Những trạng thái ham đắm dục lạc như trên, bỗng nhiên ngôi nhà bị lửa bốc cháy. Lửa dữ đốt tất cả mọi thứ, biểu thị cho cái chết của nhân sinh. Cái chết đến với bất cứ người thắng kẻ bại, người sang kẻ hèn. Trong nhà lại có nhiều trẻ nhỏ, không biết sự nguy hiểm, cũng không biết cả lửa cháy, chỉ say đắm vui chơi”. Trẻ nhỏ ở đây biểu thị cho tất cả chúng ta.

Ví dụ trên đây là thực trạng muôn đời của kiếp nhân sinh. Muốn ra khỏi thực trạng khổ đau nguy hiểm ấy chỉ có một con đưòng duy nhất để thoát ra, mà trong kinh nói:“Nhà này chỉ có một cửa, mà lại nhỏ hẹp, con đường ra vào rất khó khăn” . Đó là con đường “Bồ-tát hạnh” . Vì Bồ-tát không có ý tự cứu riêng mình, mà còn muốn cho mọi chúng sanh đều thoát khổ, nên phải thực hiện tinh thần Bồ-tát đạo. Vì con người ai ai cũng có niệm thiện, ai ai cũng có tánh tốt, cho nên ai ai cũng có thể thoát khỏi cái cửa duy nhất nhỏ hẹp này.

Vậy muốn ra khỏi ngôi nhà lửa hiện đang bốc cháy - hành tinh chúng ta đang ở, hầu hết khắp mọi quốc gia trên thế giới - mọi người phải tu theo đạo Bồ-tát, phải phát huy những đức tánh tốt trong mình, phải tập hạnh bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định và trí tuệ.

Tại Việt Nam, trong quá khứ, dưới hai triều đại nhà Lý và nhà Trần, có những vị vua vừa là Thiền sư như vua Trần Thái Tông, từng tuyên bố: “Ta xem Ngai vàng như chiếc giày rách”. Cháu vua Trần Thái Tông là Trần Nhân Tông - vị vua sáng lập ra phái Thiền Tông Việt Nam đầu tiên, gọi là Trúc Lâm Yên Tử. Vua Trần Nhân Tông có làm bài thơ như sau:

“Ở đời vui đạo cứ tùy duyên
Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền
Báu sẵn trong mình thôi tìm kiếm
Lặng lòng đối cảnh hỏi chi Thiền” .

Bài thơ này nói lên phong thái tự tại của nhà vua, nghĩa là đối với tính cách vô thường của thế giới khách quan, tâm nhà vua vẫn an nhiên tự tại, bất động. Nó cũng nói lên tư tưởng cơ bản của đạo Phật. Mỗi người đều có tâm giác ngộ, gọi là Phật tánh. Con người sẵn có trí tuệ giác ngộ chói sáng. Như vậy con người không cần phải hướng ra ngoài để tìm hạnh phúc và giác ngộ.

Thiền sư Lâm Tế nói:“Hướng ngoại tác công phu, tổng thị ngoan si hán”, nghĩa là: hướng ngoại mà tu hành là kẻ si mê. Con người trong thời hiện đại đang tự đánh mất “con người thật của mình” , chạy theo cái giả dối, thèm muốn điên đảo, không bao giờ có thể thỏa mãn. Trong thời đại văn minh như hiện nay, con người có đời sống vật chất rất cao, rất phong phú, nhưng đời sống tinh thần thì lại bị dao động, thiếu thốn, mất thăng bằng. Con người hiện đại đang đánh mất con người thật của mình, chạy theo cái giả dối. Đối với những người luôn khao khát, thèm muốn điên đảo, không bao giờ có thể thỏa mãn ; với một tâm lý như vậy rất dễ đưa nhiều người đi vào con đường ma túy, hay đến các bệnh viện tâm thần, có khi đi đến tự sát.

Đạo Phật luôn luôn đề cao an lạc và hạnh phúc tinh thần, một đời sống đạo đức cao đẹp, một sự giác ngộ và giải thoát. Đạo Phật khuyên mọi người nên trở về với con người thật của chính mình, với“bản lai diện mục”của mình, hài hòa với xã hội, với thiên nhiên, hài hòa giữa thân và tâm, giữa từ bi và trí tuệ. Đạo Phật xác nhận: mọi người đều có thể thành tựu một nội tâm hài hòa, an lạc như thế nếu biết làm theo lời Phật dạy, là có đủ Giới hạnh, Thiền định và Trí tuệ. Đó là đời sống trung đạo của đạo Phật vậy.

Nếu làm được như vậy là chúng ta biến đổi kỷ nguyên 21 này thành một kỷ nguyên của con người hạnh phúc.

Đức Phật dạy: “Chiến thắng ba ngàn quân địch không bằng tự chiến thắng mình. Tự thắng mình là chiến công oanh liệt nhất” .

Nha Trang, ngày 25 tháng 03 năm 1997

THÍCH CHÁNH LẠC

Chùa Hải Đức – Nha Trang.

---o0o---
Vi tính: Ngọc Sương

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/04/2023(Xem: 3844)
Tôi muốn chia sẻ về mối quan hệ tôn giáo và xã hội hiện đại. Vì bản tính tự nhiên, mỗi cá nhân đều có sự cảm nhận về tự ngã. Từ đó, mỗi cá nhân đều trải qua các hiện tượng mà họ nhận thức được bằng cảm giác thống khổ, cảm xúc vui sướng hay yên tĩnh. Đây là sự thật, không cần phải trình bày tỉ mỉ nữa. Động vật cũng thế. Vì bản tính tự nhiên, tất cả chúng ta đều muốn đạt được an lạc hạnh phúc, không muốn thống khổ và bất hạnh. Ta khỏi cần phải chứng minh điều này. Trên cơ sở này, chúng ta đàm luận về quyền của mọi người được hưởng cuộc sống an lạc hạnh phúc, quyền vượt qua mọi thống khổ.
18/03/2023(Xem: 6567)
Tây phương Kinh tế học có thể bị chỉ trích bởi dựa trên sự hợp lý hóa hành vi cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận vì lợi ích của một nhóm nhỏ, phụ thuộc vào sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và sự suy thoái môi trường chung của chúng ta. Trong khi đó, Kinh tế học Phật giáo được hình thành dựa trên sự tương tác phụ thuộc lẫn nhau của con người và môi trường, do đó mang lại sự an lạc hạnh phúc dựa trên từ bi tâm đối với tất cả chúng sinh. Mục tiêu của nó là duy sự phát triển bền vững gắn liền bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay, đồng thời khẳng định sự thịnh vượng chung và mang đến sự an lạc thịnh đạt cho người lao động, khách hàng, cổ đông và xã hội.
03/02/2023(Xem: 5782)
Đã có rất nhiều tài liệu đề cập về Thiền bao gồm Thiền Định, Thiền Chỉ, Thiền Quán, Thiền Tọa, Thiền Hành, Thiền Phàm Phu, Thiền Ngoại Đạo, Thiền Tiểu Thừa, Thiền Trung Thừa, Thiền Đại Thừa, Thiền Tối Thượng Thừa...Tất cả đều là những sắc thái, tướng trạng, hiện tượng và tác động từ tâm thức chúng ta trong ý hướng tu tập trên đường giải thoát, giác ngộ Phật đạo. Sự giác ngộ giải thoát nơi Phật Đạo, tuy nhiên, lại quá phong phú, đa diện với sắc thái tâm thức rất sâu xa vi tế nên dù Phật tánh
31/01/2023(Xem: 6495)
Kinh Châu Báu, thuộc kinh điển Nam Truyền, Tiểu Bộ Kinh, là một bài kinh Hộ Trì hay Cầu An, do Đức Phật Thích Ca nói ra khi Ngài được thỉnh đến thành Vesali, dân chúng đang chịu ba thứ nạn, nạn dịch bệch, nạn đói và nạn Phi Nhân. Dân chúng ở đây cầu mong nhờ ân đức cao trọng của Đức Phật, nhờ Phật Lực mà các hoạn nạn được tiêu trừ.
07/01/2023(Xem: 5487)
Phương pháp phát triển cá nhân mà nhà sư Sangharakshita nói đến trong bài này là phép thiền định của Phật giáo, một phép luyện tập nhằm biến cải một con người bình dị trở thành một con người đạo đức, sáng suốt và cao quý hơn, và ở một cấp bậc sâu xa hơn nữa còn có thể giúp con người đạo đức, sáng suốt và cao quý ấy thoát ra khỏi thế giới hiện tượng luôn trong tình trạng chuyển động và khổ đau này.
23/12/2022(Xem: 14180)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
02/11/2022(Xem: 18574)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 14167)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12471)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6654)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567