Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đạo đức Phật Giáo và xã hội hiện đại.

09/04/201313:33(Xem: 5696)
Đạo đức Phật Giáo và xã hội hiện đại.

ÐẠO ÐỨC PHẬT GIÁO VÀ XÃ HỘI HIỆN ÐẠI

Thích Hải Tín

1. Ðề xuất vấn đề

Mâu thuẫn giữa mình (tự ngã) và con người, mâu thuẫn giữa con người và xã hội, mâu thuẫn giữa con người và thiên nhiên là ba mâu thuẫn cơ bản lớn tồn tại phổ biến của xã hội loài người. Từ xưa đến nay, nhân loại đã sáng tạo nền văn minh quang minh xán lạn, xã hội loài người đã đạt được tiến bộ và phát triển không ngừng. Ngày nay chúng ta đã bước sang ngưỡng cửa của thế kỷ 21, làm sao xử lý mối quan hệ giữa con người và tự ngã, con người và xã hội, con người và thiên nhiên tốt hơn, vẫn là bài học lớn và quan trọng mà toàn nhân loại cùng nhau đối diện. Nó đã liên quan đến vận mạng của toàn thể xã hội loài người, còn quan hệ đến cuộc sống hiện thực và giá trị cuộc sống của mỗi con người.

Ðể giải đáp vấn đề này, từ xưa đến nay, các môn khoa học xã hội và khoa học tự nhiên, từ các góc độ khác nhau, đã đưa ra một phần, lại thêm một phần đáp án. Trong những đáp án này, đáp án của Phật giáo đưa ra là hết sức đặc biệt và rất có giá trị. Là một tôn giáo, Phật giáo một mặt đem sự siêu việt của thế giới hiện thực và cuộc sống hiện thực làm mục tiêu theo đuổi cuối cùng; mặt khác, lại chủ trương đối với việc theo đuổi mục tiêu cuối cùng không rời cuộc sống hiện thực sinh động tự nhiên, đồng thời trong quá trình phân tích và phê phán thế giới hiện thực và giá trị nhân sinh, đã đưa ra lý giải và nghiên cứu tìm tòi các vấn đề Phật giáo đối với bản chất nhân sinh, giá trị cuộc sống cho đến con đường và cảnh giới của cuộc sống hoàn thiện. Là học thuyết đạo đức luân lý Phật giáo bộ phận quan trọng hình thành hệ thống giáo nghĩa Phật giáo, tập trung thể hiện suy xét rất nhiều vấn đề của Phật giáo đối với nhân sinh, nó không chỉ là quan niệm giá trị của con người trong sự phát triển lịch sử hơn 2000 năm và cung cách hành vi đã sinh ra ảnh hưởng sâu sắc, dù ở xã hội ngày nay, rất nhiều tư tưởng hợp lý, thích nghi của Phật giáo vẫn là tài sản quý báu của toàn nhân loại, làm giảm mối nguy của nền văn hóa hiện đại, nâng cao cảnh giới (trạng thái) tâm linh của nhân loại, xây dựng nhân sinh quan và giá trị quan chính xác, giữ quan hệ giữa người với người và quan hệ quốc tế một cách hài hòa, cho đến bảo vệ hòa bình thế giới và cân bằng sinh thái đều rất có ý nghĩa tích cực.

2. Truyền thống Phật pháp

Vấn đề quan hệ giữa con người và tự ngã là mỗi người ý thức tự ngã cần phải đối diện với vấn đề, cũng là vấn đề Phật giáo đại tiểu thừa rất quan tâm coi trọng. Hạt nhân của Phật giáo nguyên thủy trình bày và phát huy giá trị và ý nghĩa nhân sinh, giáo lý căn bản Tứ đế của Phật giáo chính là xoay quanh vấn đề sinh tồn và cuộc sống của con người mà triển khai. Trong đó, hai đế Khổ đế và Tập đế đưa ra phán đoán đặc biệt về giá trị và ý nghĩa của sự sinh tồn và sự sống của con người, cho rằng cuộc sống có quá nhiều kết quả đau khổ, từ đó tìm ra nguyên nhân dẫn đến những kết quả khổ của con người; Diệt đế và Ðạo đế nói rõ là theo đuổi đến cùng giá trị cuộc sống, chính là con đường và phương pháp giải trừ những đau khổ, có được cuộc sống hạnh phúc, an lạc và đạt được cảnh giới lý tưởng. Mục đích đức Phật tuyên thuyết giáo lý Tứ đế, là vì giúp cho chúng sanh thấy được khổ, biết được nguyên nhân gây ra đau khổ, từ đó đoạn tập, chứng diệt và tu tập đạo cuối cùng đạt được giải thoát. Nhận thức được bản chất đau khổ của cuộc sống hiện thực, không bị những niềm vui khoái lạc tạm bợ hư huyễn mê hoặc, đây là cơ sở lý luận của nhân sinh quan Phật giáo. Nguồn gốc của phiền não và đau khổ của con người là gì? Ðạo Phật cho rằng, cuộc sống và sinh mạng của con người không phải quyết định ở ý chí của thượng đế hay của thiên thần, cũng không phải số mạng đã định không thể thay đổi, càng không phải vô duyên vô cớ, mà là quyết định ở tự thân con người, chính con người mình tạo nghiệp, chính mình thọ báo. Phật giáo cho rằng, nguồn gốc phiền não và đau khổ của con người là vô minh, cũng chính là ngu si vô tri của con người. Ðã là căn nguyên đau khổ của con người thì không nhận thức được chân thật của cuộc sống và sự sinh tồn của con người, như vậy giác ngộ chân lý, diệt trừ vô minh, thì có thể diệt trừ phiền não và đau khổ từ gốc của nó, đây chính là cảnh giới (niết bàn) lý tưởng cao nhất mà Phật giáo nói rõ cho con người. Ý nghĩa đơn giản của niết bàn là tịch diệt, nghĩa là diệt độ hoặc viên tịch. Diệt độ là chỉ sự diệt tận phiền não khổ đau, diệt trừ nhân quả sanh tử; viên tịch là chỉ công đức viên mãn, tịch tĩnh bất hoại. Vì vậy, Phật giáo gọi là diệt không phải là chết đi một cách tiêu cực, tuy nhiên nó bao hàm cả ý nghĩa của thân thể chết đi, nhưng tuyệt đối không đồng nghĩa với chết, vì cái nhìn của Phật giáo, chết không phải là sự giải thoát cuối cùng, nó chỉ là một vòng nhân quả lưu chuyển. Niết bàn làm cảnh giới hay trạng thái cuối cùng của Phật giáo, là phải diệt trừ phiền não và đau khổ của chính mình, ngay trong cuộc sống hiện tại (chứ không phải đợi sau khi chết đi mới có niết bàn), điều này có ý nghĩa vô cùng tích cực. Mà muốn đạt được trạng thái giải thoát phải triệt để thể nhận chân tướng của nhân sinh, giác ngộ chân lý một cách triệt để, giác ngộ chân lý càng nhiều thì phiền não và đau khổ càng ít, giác ngộ triệt để chân tướng của nhân sinh, cũng chính là hoàn toàn diệt trừ đau khổ phiền não, đạt được niết bàn, đây là cảnh giới cuối cùng của sự giác ngộ về cuộc sống và sinh tồn của con người. Ðạo đế là chỉ con đường và phương pháp chính xác hướng dẫn chúng sanh đoạn trừ phiền não, đau khổ, chứng đắc niết bàn. Phật giáo nguyên thủy cho rằng, con đường giác ngộ thành Phật có rất nhiều, tất cả gồm 7 khoa có 37 phẩm trợ đạo, còn gọi là 37 yếu tố giác ngộ, trong đó quan trọng nhất là “Bát chánh đạo”, tức tám con đường chân chánh đưa đến giác ngộ giải thoát thành Phật. Nói cụ thể, nó bao gồm: Chánh kiến: là hiểu biết chân chánh hay nhận thức rõ ràng đúng như thật, phù hợp với Phật pháp; Chánh tư duy: là do sự hiểu biết trí tuệ phù hợp với Phật pháp mà xa lìa vọng tưởng, điên đảo, mê hoặc; Chánh ngữ: là những lời nói đúng đắn, chân chánh phù hợp với Phật pháp, không nói lời hư ngụy, không nói lời ác, không nói lời kiêu mạn, không nói lời phỉ báng, không nói lời thêu dệt, không nói lời thô bạo; Chánh nghiệp: những hoạt động, việc làm chân chánh, từ bỏ những ác hạnh như sát sanh, trộm cắp tà dâm…; Chánh mạng: là chỉ cuộc sống và nghề nghiệp chân chánh, từ bỏ những nghề nghiệp không chân chánh mang lại thiệt hại cho xã hội, thiệt hại cho người khác, không an toàn cho sinh vật; Chánh tinh tấn, còn gọi là chánh phương tiện: là những nỗ lực chân chánh đưa đến giác ngộ giải thoát, bỏ ác tu thiện, tự giác tự lực quyết ngăn ngừa những điều xấu ác chưa phát sinh, trừ bỏ những điều ác đã phát sinh, nỗ lực làm những việc thiện và tăng trưởng những điều thiện đã có; Chánh niệm: là sự để ý, chú ý chân chánh, là luôn rõ biết, luôn đầy đủ ý thức và chú ý về những hoạt động của thân xác, những cảm giác hay cảm thọ, những hoạt động tâm ý và những sự vật bên ngoài; Chánh định: là thiền định chân chánh, tức chánh thân đoan tọa, tâm chuyên chú vào một cảnh, thuần nhất, an tịnh, không dao động. Ðiều Ðạo đế nhấn mạnh là hai phương diện hành vi và tư tưởng, làm theo yêu cầu giá trị đạo đức của đạo Phật, nguyên tắc chủ yếu của đạo đức quan này là “từ bỏ những điều ác, làm tất cả việc lành”, phòng ngừa và đoạn trừ những tư tưởng và hành vi xấu, ác; phát huy và duy trì những tư tưởng và hành vi tốt, lành. Vấn đề thiện ác là vấn đề trung tâm của luân lý học, bất kỳ thuyết luân lý học nào cũng đều khuyên làm những điều tốt có lợi cho mình và cho người và từ bỏ những điều xấu có lợi cho mình (hoặc hại cho mình) và hại cho người. Ðặc điểm thiện ác quan Phật giáo là, không chỉ nhấn mạnh tất cả mọi người hướng đến cái thiện từ bỏ cái ác trên bản thể bản tánh, mà còn kết hợp hành vi thiện ác với lợi ích của con người từ thực tiễn cuộc sống, chủ trương những việc làm thiện tất nhiên sẽ đạt được phước báo, những điều ác nhất định sẽ chuốc lấy khổ quả, bất cứ ai cũng không thoát khỏi, xây dựng niềm tin cho mọi người làm lành lánh dữ. Phật giáo nguyên thủy, giác ngộ và giải thoát tuy chủ yếu nghiêng về thân tâm của chính mình, nhưng quan tâm nỗi khổ dân chúng và sự an ổn xã hội, tự mình tu sửa thân tâm, giúp đỡ người khác, giáo hóa thế tục, luôn là đạo lý đúng đắn của sự tu trì, luôn là mục đích chính của Phật pháp. Chỉ có trong sự phục vụ phụng hiến vô tư đối với xã hội và chúng sanh, luôn tinh tấn, không giải đãi, mới có thể đoạn trừ phiền não, tăng trưởng trí tuệ, cuối cùng đạt đến giác ngộ.

“Chư hành vô thường”, “chư pháp vô ngã”, “niết bàn tịch tĩnh” là ba mệnh đề quan trọng của Phật giáo nguyên thủy, được gọi là “tam pháp ấn”. Phật giáo cho rằng, tất cả sự vật hiện tượng đều do nhân duyên mà có, duyên tụ thì sanh duyên tan thì diệt, không có một tự tánh thường trụ bất biến. Sở dĩ con người đầy dẫy những phiền não và đau khổ, chính vì không hiểu đạo lý “vô thường”, “vô ngã” mà còn sinh ra thường kiến, ngã kiến. Vì có thường kiến và ngã kiến, chúng sanh lúc nào cũng chấp ngã về con người và chấp ngã về pháp, từ đó sanh ra vọng tưởng phân biệt, tham ái chấp thủ, cho đến giành thắng tranh hơn, hỗn loạn mãi không thôi. Ngược lại nếu hiểu rõ đạo lý “vô thường”, “vô ngã”, tất nhiên sẽ giảm thiểu được cho đến đoạn trừ tham ái chấp trước sự vật thế giới bên ngoài về vô thường, vô ngã hư huyễn, như vậy phiền não và đau khổ sẽ tùy theo đó mà tiêu tan, đạt được cảnh giới cao nhất của sự giác ngộ nhân sinh—niết bàn tịch tĩnh.

Tinh thần căn bản của Phật giáo Ðại thừa là từ bi bình đẳng, tự giác giác tha, tự lợi lợi tha. Từ bi bình đẳng là điểm đặc thù của đạo đức luân lý Phật giáo. Tính đặc thù này chủ yếu biểu hiện ở chỗ quan tâm bảo vệ người khác thậm chí bình đẳng với tất cả sinh vật khác không có sai biệt, là sự quan tâm chân thành phát xuất từ bản tính, nhấn mạnh rằng tất cả chúng sanh đều bình đẳng. Tự giác tự lợi là thấy rõ chân thật đối với cuộc sống và truy cầu cảnh giới lý tưởng về cuộc sống, tức là giác ngộ và giải thoát của chính mình; giác tha lợi nhân là không chỉ giúp cho tất cả chúng sanh thực hiện giác ngộ chân thật đối với nhân sinh, giải thoát phiền não và đau khổ, đạt được sự hoàn thiện cuối cùng của cuộc sống, mà còn giúp đỡ người khác một cách vô tư, khiến họ có cuộc sống hạnh phúc, an vui. Tự mình giác ngộ và giác ngộ cho người khác không được tách rời, giúp đỡ tương trợ cùng nhau thành tựu. Muốn đạt được sự tự giác ngộ của cuộc sống mà chỉ tu dưỡng lấy cho thân mình thì không thể đạt được, chỉ thực hiện được không chỉ bằng sự cống hiến kính dâng không ngừng đối với xã hội và con người, bằng sự quan tâm thông cảm với tất cả chúng sanh, mà một ngày nào đó thực sự giác ngộ được chân đế của sự sinh tồn và cuộc sống của con người, thì tất nhiên cống hiến, phục vụ con người một cách chí công vô tư. Tự giác tự lợi vẫn là tiền đề cần thiết và chuẩn bị giác tha lợi nhân (giác ngộ cho người khác và làm lợi ích cho mọi người). Chỉ có không ngừng nâng cao giác ngộ của chính mình đối với chân đế của Phật pháp, mới có năng lực phổ độ chúng sanh, lợi lạc hữu tình. Ngược lại cũng vậy, giác tha lợi nhân là yêu cầu cần thiết của giác ngộ nhân sinh, cũng là một phần giác ngộ của tự thân mình.

Có thể thấy, Phật giáo giải đáp vấn đề quan hệ giữa con người và tự ngã là vấn đề quan hệ của con người và xã hội liên hệ chặt chẽ với nhau, phản ánh nhận thức sâu sắc của Phật giáo đối với quan hệ giữa mình và người, giữa con người và xã hội. Con người là sự thống nhất giữa tồn tại cá thể và tồn tại xã hội, nhưng thuộc tính bản chất của con người là ở tính xã hội của con người, chính vì do tính xã hội của con người đã quyết định sự khác nhau chủ yếu giữa con người và động vật. Vì vậy, bất kỳ cá nhân nào xa lìa xã hội thì không thể tồn tại, thì càng không thể nói sự hoàn thiện cuộc sống cá nhân. Ðiều này nói rõ bất kỳ ai cũng không thể chỉ lo tu dưỡng cho bản thân mình, muốn xây dựng cuộc sống cá nhân hoàn thiện, đồng thời phải tích cực xúc tiến phát triển ở người khác, tức xúc tiến sự hoàn thiện chung của toàn nhân loại, sự hoàn thiện của cuộc sống cá nhân được xây dựng trong sự tiến bộ và phát triển chung của xã hội loài người.

Duyên khởi luận của Phật giáo đã nói lên, mọi sự mọi vật trong đời đều do điều kiện nhân duyên nhất định hòa hợp mà sanh khởi, “cái này có nên cái kia có, cái này sanh nên cái kia sanh”, tất cả thế giới hiện tượng đều liên hệ với nhau, cùng dựa vào nhau mà tồn tại, quan hệ giữa con người và tự nhiên cũng là như vậy. Con người tuy là linh của vạn vật, nhưng con người và thiên nhiên, bao gồm sông, núi, cỏ, cây, chim, cá, sâu, bọ… đều dựa vào nhau mà sống, dựa vào nhau mà sinh tồn. Bảo vệ môi trường thiên nhiên, thực ra chính là đang bảo vệ mình; ngược lại, phá hoại thiên nhiên cũng chính là hủy hoại cuộc sống của chính chúng ta, không những có hại cho chính chúng ta mà còn nguy hiểm đến các đời con cháu của chúng ta. Tư tưởng từ bi bình đẳng của Phật giáo, yêu cầu chúng ta quan tâm đến tất cả chúng sanh một cách bình đẳng không phân biệt. Vì theo nghiệp thọ sanh của Phật giáo, tất cả chúng sanh trong những kiếp quá khứ đều là lục thân quyến thuộc với nhau, chỉ là đời này kiếp này do nghiệp lực quả báo khác nhau, mà có sự khác nhau là người và động vật. Lại nữa, Phật giáo cho rằng, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, trên phương diện Phật tánh, con người và động vật hoàn toàn bình đẳng, vì vậy đạo Phật khuyên không nên sát sanh, nên phóng sanh, , làm sạch môi trường, trang nghiêm quốc độ, lợi lạc hữu tình.

3. Ý nghĩa hiện đại về đạo đức Phật giáo

Ngày nay chúng ta đã bước vào thế kỷ 21, tùy theo sự phát triển rất nhanh của khoa học kỹ thuật và nâng cao trình độ công nghiệp hóa, con người đã khai thác và cướp đoạt nguồn tài nguyên thiên nhiên đã đi đến bước điên cuồng, môi trường ô nhiễm, tài nguyên cạn kiệt, đã trở thành vấn đề mang tính toàn cầu. Sự phát triển quá nhanh của nền văn minh vật chất, đã mang đến sự thay đổi đột ngột về kết cấu xã hội và phương thức sinh hoạt, gây rối thế giới tinh thần của con người, phá vỡ quy phạm đạo đức vốn có, sinh ra hàng loạt khủng hoảng giá trị và khủng hoảng tinh thần. Học thuyết luân lý Phật giáo tiềm tàng nguồn phong phú làm giảm những mâu thuẫn này, có thể vì sự hoàn thiện tự ngã của nhân loại và sự điều hòa của xã hội cùng với sự phát triển mà thực hiện cống hiến đặc biệt của đạo Phật.

Trên phương diện quan hệ giữa mình và con người, khủng hoảng giá trị và khủng hoảng tính ngưỡng tồn tại phổ biến trong xã hội hiện đại, biểu hiện nổi bật chính là mất cân bằng về tinh thần và không nhận ra chính mình. Do tiết tấu cuộc sống tăng nhanh, cạnh tranh ngày càng kịch liệt, thói quen ngày trước là dần dần từng bước, phương thức sinh hoạt đơn nhất, chỉ trong một đêm sáng dậy bị đảo lộn, thay vào đó là tin tức khủng bố, nổ bom, nghề nghiệp thay đổi, cương vị cạnh tranh nhau tuyển mộ, mất chức, tìm việc, qua một đêm giàu có đột ngột v.v… Thể chế mới mang đến cơ hội mới, đồng thời cũng mang đến những thử thách. Rất nhiều người vì vậy mà cảm thấy thần kinh căng thẳng cao độ, thân tâm mệt mỏi, lo nghĩ, nôn nóng, áp lực, bất an, gây nên trạng thái sức khỏe kém tương đối phổ biến của con người hiện nay, người nặng có thể bị bệnh tâm thần phân liệt… Trên phương diện quan hệ giữa con người và xã hội, do lạm phát cực độ về vật dục và thiếu lương tri đạo đức, rất nhiều người đi vào con đường tội phạm, thò ra một cánh tay tội ác với người khác, với xã hội, với quốc gia, rơi vào hố sâu của tội lỗi. Có người chìm đắm vào vật dục và làm nô lệ của vật dục, vì thỏa mãn lợi ích của riêng cá nhân mình mà không chọn lựa phương pháp, thậm chí trái pháp luật loạn kỷ cương, nguy hại đến xã hội; có người chỉ quan tâm đến được mất cho riêng mình, thờ ơ lãnh đạm với người khác và xã hội; có người tinh thần trống rỗng vô trách nhiệm, không có lý tưởng, không truy cầu, thậm chí không phân được thiện ác, không biết đúng sai. Trên phương diện quan hệ giữa người và thiên nhiên, khai thác và phá hoại bừa bãi nguồn tài nguyên thiên nhiên, đã gây nên kết quả xấu khó mà đổi lại được, cuối cùng có hại cho chính con người chúng ta. Sinh thái mất cân bằng, sinh động vật bị diệt chủng, môi trường bị ô nhiễm, nguồn năng lượng bị khủng hoảng, thảm thực vật bị phá hoại, hàng loạt vấn đề bày ở ngay trước mắt chúng ta.

Những hiện tượng này sinh ra, cố nhiên có nhiều nguyên nhân khách quan của nó, nhưng nguồn gốc cuối cùng vẫn là ở chính con người của chúng ta; là nhân sinh quan, giá trị quan của chúng ta có vấn đề; là nhận thức sai lạc của chúng ta đối với tự ngã, xã hội và thiên nhiên, đã mở rộng tự ngã, đã khuyếch trương tự ngã đến mức không thích hợp. Phật giáo đưa ra những quy phạm đạo đức và những phương pháp tu hành cơ bản về giác ngộ giải thoát; như Ngũ giới: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu; Thập thiện: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói lời hư vọng, không nói hai lời, không nói lời ác xấu, không nói lời thêu dệt, không tham dục, không sân hận, không tà kiến; Lục độ: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ; Tứ nhiếp: Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự; v.v… Và những nguyên tắc tiêu chuẩn luân lý: bỏ dữ làm lành, làm lành được quả lành, làm xấu ác gặp quả ác xấu… giúp giải quyết những vấn đề xã hội như thúc đẩy hoàn thiện đạo đức xã hội đời thường, tịnh hóa tâm linh, tăng trưởng trí tuệ, kiện toàn nhân cách, khắc phục tự ngã, khắc phục tinh thần vô trách nhiệm, khắc phục tham lam quá độ về vật dục… Là một liều thuốc hay để trị bệnh cho con người và xã hội hiện đại.

Giải quyết tốt đẹp mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, cá nhân và xã hội hiện ra càng thêm quan trọng ở xã hội hiện đại toàn cầu hóa, thông tin hóa. Những tư tưởng luân lý của Phật giáo như chúng sanh bình đẳng, tự lợi lợi tha, từ bi tế thế…, những quy phạm đạo đức như: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu (bao gồm cả các chất gây kích thích thần kinh như: Heroin, thuốc lá, chất có hại, cồn…), giúp ích cho việc thúc đẩy nhân loại xác lập quan hệ giữa người với người một cách hài hòa và trật tự xã hội tốt đẹp, làm hòa dịu mâu thuẫn xã hội, bình thường hóa khác biệt đẳng cấp, ngăn ngừa chiến tranh, bảo vệ hòa bình. Chỉ cần chúng ta có thể phá trừ những trói buộc của bản ngã, nhận thấy rõ bản lai diễn mục của tự ngã, tất cả những chấp trước vọng tưởng, phiền não đau khổ tất nhiên sẽ từ bỏ chúng ta mà đi, khiến bản thân mình trở thành người khỏe mạnh về thân tâm, quan tâm đến người khác và xã hội, yêu mến sự nghiệp lợi ích chung, hạnh phúc an vui. Cuộc sống như vậy chính là cuộc sống từng bước hướng tới giác ngộ bằng việc cống hiến không ngừng cho xã hội. Là cuộc sống hiện thực, cuộc sống sinh động, là cuộc sống hoàn thiện sinh mạng cá nhân và luôn kết hợp với sự hoàn thiện phổ biến của toàn nhân loại. Trên phương diện quan hệ giữa người và thiên nhiên, khái niệm chinh phục thiên nhiên không hạn chế đã bị thay thế bởi khái niệm bảo vệ môi trường và khái niệm quan hệ hài hòa giữa con người với thiên nhiên. Giáo lý duyên khởi, từ bi bình đẳng của đạo Phật và tư tưởng truy cầu cuộc sống cực lạc tịnh độ, hầu hết những người đệ tử Phật xây dựng những ngôi chùa thanh lương, trồng cây gây rừng, chính mình thực hành giới sát, phóng sanh bảo vệ động vật, duy trì cân bằng sinh thái, sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý, bảo vệ và trong sạch hóa môi trường, thống nhất nhịp nhàng giữa người thực hiện và thiên nhiên, đều có ý nghĩa hiện thực rất quan trọng.

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/05/2015(Xem: 24997)
Một tập sách với tựa đề như trên, trong xã hội hiện nay, không có gì đặc biệt; so với Kito giáo tại Việt Nam, cũng là việc làm bình thường, vì hàng năm, một số giáo xứ thường xuyên tổ chức các lớp hướng dẫn giáo lý và hôn nhân cho thế hệ trẻ từ tuổi 18 trở lên; nhưng đặc biệt của tập sách nầy nằm trong hai lĩnh vực: 1/ Phật giáo chưa từng xuất hiện sách hoặc lớp hướng dẫn về hạnh phúc gia đình, mặc dù có những kinh điển nói qua vấn đề nầy, quá tổng quát, chưa thích ứng với từng cảnh trạng của từng xã hội biến thái khác nhau hiện nay. 2/ Sách không trực tiếp dạy giáo lý như các lớp “giáo lý và hôn nhân” của các giáo xứ, nhất là giòng Tên; nhưng sách hướng dẫn tháo gỡ nhiều vấn đề mắc mứu liên quan đến tâm lý xã hội và đạo đức nhà Phật.
08/02/2015(Xem: 7931)
Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, không chỉ theo cảm nhận thông thường, có một sự bắt đầu và có sự chấm dứt. Như vậy là hợp lý; đấy là quy luật; đấy là tự nhiên. Cho nên bất cứ chúng ta gọi là Big Bang hay điều gì như vậy đi nữa, có một tiến trình tiến hóa hay một tiến trình của sự bắt đầu. Cho nên phải có một sự chấm dứt. Trong bất cứ trường hợp nào đi nữa, tôi nghĩ sự chấm dứt hay tận thế sẽ không xảy ra trong vài triệu năm nữa. Bây giờ, sự ô nhiễm. Như quý vị biết tôi đến từ Tây Tạng. Khi chúng tôi ở Tây Tạng, chúng tôi không có ý tưởng về ô nhiễm. Mọi thứ rất trong sạch! Trong thực tế, lần đầu tiên khi tôi biết qua ô nhiễm và nghe mọi người nói về rằng tôi không thể uống nước, nó làm tôi ngạc nhiên. Cuối cùng kiến thức của chúng ta được mở rộng.
23/01/2015(Xem: 5046)
Các tôn giáo nên hợp tác với nhau hầu góp phần mang lại một nền hòa bình cho toàn thế giới. Nếu tìm hiểu cặn kẽ những lời ủy thác do các vị sáng lập tôn giáo đã lưu lại cho chúng ta ngày nay, thì tất chúng ta sẽ hiểu rằng những lời ấy đều đã được ghi sẵn trong kinh sách của mỗi tôn giáo, và nhất loạt nêu lên trọng trách của mỗi người chúng ta trong xã hội.
05/01/2015(Xem: 19142)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
05/01/2015(Xem: 16840)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
11/12/2014(Xem: 9194)
Ngày nay, nhân loại đã tiến bộ rất xa về mặt khoa học, kỹ thuật, đã làm thay đổi bộ mặt thế giới từng ngày, từng giờ và thậm chí từng phút, từng giây, nên đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội v.v… đều được nâng cao một cách đáng kể.
22/11/2014(Xem: 23469)
Có người khách mang đến cho tôi một gói quà. Bên trong là hai quyển sách: Đất nước Cực lạc, Ánh sáng và bóng tối. Tác giả: Liên Hoa Bảo Tịnh. Khoảng thời gian sau này, tôi có rất ít điều kiện để đọc thêm được những sách mới, nên không ngạc nhiên nhiều lắm với tác giả lạ. Dẫu sao, trong tình cảnh ấy mà được đọc những sách lạ, nhất là được gởi từ phương trời xa lạ, thì cũng thật là thú vị. Rồi càng đọc càng thú vị. Một phần vì có những kiến giải bất ngờ của tác giả, về những điểm giáo lý mà mình rất quen thuộc. Quen thuộc từ khi còn là một tiểu sa-di. Nhưng phần khác, thú vị hơn, khi biết rằng Liên Hoa Bảo Tịnh cũng là Đức Hạnh – đó là chú XUÂN KÝ, một thời ở Già-lam cùng với chú Sỹ.
15/11/2014(Xem: 16829)
Nên lưu ý đến một cách phân biệt tinh tế về thứ tự xuất hiện của hai kiến giải sai lầm trên. Đầu tiên là kiến giải chấp vào tự ngã của các nhóm thân tâm, và từ cơ sở này lại xuất phát kiến giải chấp vào tự ngã của cá nhân. Trong trường hợp nhận thức được Tính không thì người ta sẽ nhận ra Tính không của nhân ngã trước; bởi vì nó dễ được nhận ra hơn. Sau đó thì Tính không của pháp ngã được xác định.
24/10/2014(Xem: 11780)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
20/10/2014(Xem: 27806)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ và những khai triển của Trung Hoa. Người Ấn vốn có thái độ coi thường lịch sử; “bởi vì chư thiên yêu thương cái gì tăm tối”*, họ đẩy tất cả những gì xảy ra lui vào bóng tối mịt mù của thần thoại. Riêng Phật tử Ấn cổ thời, với lý tưởng cứu cánh là Niết Bàn, mọi biến cố lịch sử cũng không bận tâm cho lắm. Ngược lại, người Trung Hoa có thái độ lịch sử một cách xác thiết.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567