Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đạo đức Phật Giáo và xã hội hiện đại.

09/04/201313:33(Xem: 5592)
Đạo đức Phật Giáo và xã hội hiện đại.

ÐẠO ÐỨC PHẬT GIÁO VÀ XÃ HỘI HIỆN ÐẠI

Thích Hải Tín

1. Ðề xuất vấn đề

Mâu thuẫn giữa mình (tự ngã) và con người, mâu thuẫn giữa con người và xã hội, mâu thuẫn giữa con người và thiên nhiên là ba mâu thuẫn cơ bản lớn tồn tại phổ biến của xã hội loài người. Từ xưa đến nay, nhân loại đã sáng tạo nền văn minh quang minh xán lạn, xã hội loài người đã đạt được tiến bộ và phát triển không ngừng. Ngày nay chúng ta đã bước sang ngưỡng cửa của thế kỷ 21, làm sao xử lý mối quan hệ giữa con người và tự ngã, con người và xã hội, con người và thiên nhiên tốt hơn, vẫn là bài học lớn và quan trọng mà toàn nhân loại cùng nhau đối diện. Nó đã liên quan đến vận mạng của toàn thể xã hội loài người, còn quan hệ đến cuộc sống hiện thực và giá trị cuộc sống của mỗi con người.

Ðể giải đáp vấn đề này, từ xưa đến nay, các môn khoa học xã hội và khoa học tự nhiên, từ các góc độ khác nhau, đã đưa ra một phần, lại thêm một phần đáp án. Trong những đáp án này, đáp án của Phật giáo đưa ra là hết sức đặc biệt và rất có giá trị. Là một tôn giáo, Phật giáo một mặt đem sự siêu việt của thế giới hiện thực và cuộc sống hiện thực làm mục tiêu theo đuổi cuối cùng; mặt khác, lại chủ trương đối với việc theo đuổi mục tiêu cuối cùng không rời cuộc sống hiện thực sinh động tự nhiên, đồng thời trong quá trình phân tích và phê phán thế giới hiện thực và giá trị nhân sinh, đã đưa ra lý giải và nghiên cứu tìm tòi các vấn đề Phật giáo đối với bản chất nhân sinh, giá trị cuộc sống cho đến con đường và cảnh giới của cuộc sống hoàn thiện. Là học thuyết đạo đức luân lý Phật giáo bộ phận quan trọng hình thành hệ thống giáo nghĩa Phật giáo, tập trung thể hiện suy xét rất nhiều vấn đề của Phật giáo đối với nhân sinh, nó không chỉ là quan niệm giá trị của con người trong sự phát triển lịch sử hơn 2000 năm và cung cách hành vi đã sinh ra ảnh hưởng sâu sắc, dù ở xã hội ngày nay, rất nhiều tư tưởng hợp lý, thích nghi của Phật giáo vẫn là tài sản quý báu của toàn nhân loại, làm giảm mối nguy của nền văn hóa hiện đại, nâng cao cảnh giới (trạng thái) tâm linh của nhân loại, xây dựng nhân sinh quan và giá trị quan chính xác, giữ quan hệ giữa người với người và quan hệ quốc tế một cách hài hòa, cho đến bảo vệ hòa bình thế giới và cân bằng sinh thái đều rất có ý nghĩa tích cực.

2. Truyền thống Phật pháp

Vấn đề quan hệ giữa con người và tự ngã là mỗi người ý thức tự ngã cần phải đối diện với vấn đề, cũng là vấn đề Phật giáo đại tiểu thừa rất quan tâm coi trọng. Hạt nhân của Phật giáo nguyên thủy trình bày và phát huy giá trị và ý nghĩa nhân sinh, giáo lý căn bản Tứ đế của Phật giáo chính là xoay quanh vấn đề sinh tồn và cuộc sống của con người mà triển khai. Trong đó, hai đế Khổ đế và Tập đế đưa ra phán đoán đặc biệt về giá trị và ý nghĩa của sự sinh tồn và sự sống của con người, cho rằng cuộc sống có quá nhiều kết quả đau khổ, từ đó tìm ra nguyên nhân dẫn đến những kết quả khổ của con người; Diệt đế và Ðạo đế nói rõ là theo đuổi đến cùng giá trị cuộc sống, chính là con đường và phương pháp giải trừ những đau khổ, có được cuộc sống hạnh phúc, an lạc và đạt được cảnh giới lý tưởng. Mục đích đức Phật tuyên thuyết giáo lý Tứ đế, là vì giúp cho chúng sanh thấy được khổ, biết được nguyên nhân gây ra đau khổ, từ đó đoạn tập, chứng diệt và tu tập đạo cuối cùng đạt được giải thoát. Nhận thức được bản chất đau khổ của cuộc sống hiện thực, không bị những niềm vui khoái lạc tạm bợ hư huyễn mê hoặc, đây là cơ sở lý luận của nhân sinh quan Phật giáo. Nguồn gốc của phiền não và đau khổ của con người là gì? Ðạo Phật cho rằng, cuộc sống và sinh mạng của con người không phải quyết định ở ý chí của thượng đế hay của thiên thần, cũng không phải số mạng đã định không thể thay đổi, càng không phải vô duyên vô cớ, mà là quyết định ở tự thân con người, chính con người mình tạo nghiệp, chính mình thọ báo. Phật giáo cho rằng, nguồn gốc phiền não và đau khổ của con người là vô minh, cũng chính là ngu si vô tri của con người. Ðã là căn nguyên đau khổ của con người thì không nhận thức được chân thật của cuộc sống và sự sinh tồn của con người, như vậy giác ngộ chân lý, diệt trừ vô minh, thì có thể diệt trừ phiền não và đau khổ từ gốc của nó, đây chính là cảnh giới (niết bàn) lý tưởng cao nhất mà Phật giáo nói rõ cho con người. Ý nghĩa đơn giản của niết bàn là tịch diệt, nghĩa là diệt độ hoặc viên tịch. Diệt độ là chỉ sự diệt tận phiền não khổ đau, diệt trừ nhân quả sanh tử; viên tịch là chỉ công đức viên mãn, tịch tĩnh bất hoại. Vì vậy, Phật giáo gọi là diệt không phải là chết đi một cách tiêu cực, tuy nhiên nó bao hàm cả ý nghĩa của thân thể chết đi, nhưng tuyệt đối không đồng nghĩa với chết, vì cái nhìn của Phật giáo, chết không phải là sự giải thoát cuối cùng, nó chỉ là một vòng nhân quả lưu chuyển. Niết bàn làm cảnh giới hay trạng thái cuối cùng của Phật giáo, là phải diệt trừ phiền não và đau khổ của chính mình, ngay trong cuộc sống hiện tại (chứ không phải đợi sau khi chết đi mới có niết bàn), điều này có ý nghĩa vô cùng tích cực. Mà muốn đạt được trạng thái giải thoát phải triệt để thể nhận chân tướng của nhân sinh, giác ngộ chân lý một cách triệt để, giác ngộ chân lý càng nhiều thì phiền não và đau khổ càng ít, giác ngộ triệt để chân tướng của nhân sinh, cũng chính là hoàn toàn diệt trừ đau khổ phiền não, đạt được niết bàn, đây là cảnh giới cuối cùng của sự giác ngộ về cuộc sống và sinh tồn của con người. Ðạo đế là chỉ con đường và phương pháp chính xác hướng dẫn chúng sanh đoạn trừ phiền não, đau khổ, chứng đắc niết bàn. Phật giáo nguyên thủy cho rằng, con đường giác ngộ thành Phật có rất nhiều, tất cả gồm 7 khoa có 37 phẩm trợ đạo, còn gọi là 37 yếu tố giác ngộ, trong đó quan trọng nhất là “Bát chánh đạo”, tức tám con đường chân chánh đưa đến giác ngộ giải thoát thành Phật. Nói cụ thể, nó bao gồm: Chánh kiến: là hiểu biết chân chánh hay nhận thức rõ ràng đúng như thật, phù hợp với Phật pháp; Chánh tư duy: là do sự hiểu biết trí tuệ phù hợp với Phật pháp mà xa lìa vọng tưởng, điên đảo, mê hoặc; Chánh ngữ: là những lời nói đúng đắn, chân chánh phù hợp với Phật pháp, không nói lời hư ngụy, không nói lời ác, không nói lời kiêu mạn, không nói lời phỉ báng, không nói lời thêu dệt, không nói lời thô bạo; Chánh nghiệp: những hoạt động, việc làm chân chánh, từ bỏ những ác hạnh như sát sanh, trộm cắp tà dâm…; Chánh mạng: là chỉ cuộc sống và nghề nghiệp chân chánh, từ bỏ những nghề nghiệp không chân chánh mang lại thiệt hại cho xã hội, thiệt hại cho người khác, không an toàn cho sinh vật; Chánh tinh tấn, còn gọi là chánh phương tiện: là những nỗ lực chân chánh đưa đến giác ngộ giải thoát, bỏ ác tu thiện, tự giác tự lực quyết ngăn ngừa những điều xấu ác chưa phát sinh, trừ bỏ những điều ác đã phát sinh, nỗ lực làm những việc thiện và tăng trưởng những điều thiện đã có; Chánh niệm: là sự để ý, chú ý chân chánh, là luôn rõ biết, luôn đầy đủ ý thức và chú ý về những hoạt động của thân xác, những cảm giác hay cảm thọ, những hoạt động tâm ý và những sự vật bên ngoài; Chánh định: là thiền định chân chánh, tức chánh thân đoan tọa, tâm chuyên chú vào một cảnh, thuần nhất, an tịnh, không dao động. Ðiều Ðạo đế nhấn mạnh là hai phương diện hành vi và tư tưởng, làm theo yêu cầu giá trị đạo đức của đạo Phật, nguyên tắc chủ yếu của đạo đức quan này là “từ bỏ những điều ác, làm tất cả việc lành”, phòng ngừa và đoạn trừ những tư tưởng và hành vi xấu, ác; phát huy và duy trì những tư tưởng và hành vi tốt, lành. Vấn đề thiện ác là vấn đề trung tâm của luân lý học, bất kỳ thuyết luân lý học nào cũng đều khuyên làm những điều tốt có lợi cho mình và cho người và từ bỏ những điều xấu có lợi cho mình (hoặc hại cho mình) và hại cho người. Ðặc điểm thiện ác quan Phật giáo là, không chỉ nhấn mạnh tất cả mọi người hướng đến cái thiện từ bỏ cái ác trên bản thể bản tánh, mà còn kết hợp hành vi thiện ác với lợi ích của con người từ thực tiễn cuộc sống, chủ trương những việc làm thiện tất nhiên sẽ đạt được phước báo, những điều ác nhất định sẽ chuốc lấy khổ quả, bất cứ ai cũng không thoát khỏi, xây dựng niềm tin cho mọi người làm lành lánh dữ. Phật giáo nguyên thủy, giác ngộ và giải thoát tuy chủ yếu nghiêng về thân tâm của chính mình, nhưng quan tâm nỗi khổ dân chúng và sự an ổn xã hội, tự mình tu sửa thân tâm, giúp đỡ người khác, giáo hóa thế tục, luôn là đạo lý đúng đắn của sự tu trì, luôn là mục đích chính của Phật pháp. Chỉ có trong sự phục vụ phụng hiến vô tư đối với xã hội và chúng sanh, luôn tinh tấn, không giải đãi, mới có thể đoạn trừ phiền não, tăng trưởng trí tuệ, cuối cùng đạt đến giác ngộ.

“Chư hành vô thường”, “chư pháp vô ngã”, “niết bàn tịch tĩnh” là ba mệnh đề quan trọng của Phật giáo nguyên thủy, được gọi là “tam pháp ấn”. Phật giáo cho rằng, tất cả sự vật hiện tượng đều do nhân duyên mà có, duyên tụ thì sanh duyên tan thì diệt, không có một tự tánh thường trụ bất biến. Sở dĩ con người đầy dẫy những phiền não và đau khổ, chính vì không hiểu đạo lý “vô thường”, “vô ngã” mà còn sinh ra thường kiến, ngã kiến. Vì có thường kiến và ngã kiến, chúng sanh lúc nào cũng chấp ngã về con người và chấp ngã về pháp, từ đó sanh ra vọng tưởng phân biệt, tham ái chấp thủ, cho đến giành thắng tranh hơn, hỗn loạn mãi không thôi. Ngược lại nếu hiểu rõ đạo lý “vô thường”, “vô ngã”, tất nhiên sẽ giảm thiểu được cho đến đoạn trừ tham ái chấp trước sự vật thế giới bên ngoài về vô thường, vô ngã hư huyễn, như vậy phiền não và đau khổ sẽ tùy theo đó mà tiêu tan, đạt được cảnh giới cao nhất của sự giác ngộ nhân sinh—niết bàn tịch tĩnh.

Tinh thần căn bản của Phật giáo Ðại thừa là từ bi bình đẳng, tự giác giác tha, tự lợi lợi tha. Từ bi bình đẳng là điểm đặc thù của đạo đức luân lý Phật giáo. Tính đặc thù này chủ yếu biểu hiện ở chỗ quan tâm bảo vệ người khác thậm chí bình đẳng với tất cả sinh vật khác không có sai biệt, là sự quan tâm chân thành phát xuất từ bản tính, nhấn mạnh rằng tất cả chúng sanh đều bình đẳng. Tự giác tự lợi là thấy rõ chân thật đối với cuộc sống và truy cầu cảnh giới lý tưởng về cuộc sống, tức là giác ngộ và giải thoát của chính mình; giác tha lợi nhân là không chỉ giúp cho tất cả chúng sanh thực hiện giác ngộ chân thật đối với nhân sinh, giải thoát phiền não và đau khổ, đạt được sự hoàn thiện cuối cùng của cuộc sống, mà còn giúp đỡ người khác một cách vô tư, khiến họ có cuộc sống hạnh phúc, an vui. Tự mình giác ngộ và giác ngộ cho người khác không được tách rời, giúp đỡ tương trợ cùng nhau thành tựu. Muốn đạt được sự tự giác ngộ của cuộc sống mà chỉ tu dưỡng lấy cho thân mình thì không thể đạt được, chỉ thực hiện được không chỉ bằng sự cống hiến kính dâng không ngừng đối với xã hội và con người, bằng sự quan tâm thông cảm với tất cả chúng sanh, mà một ngày nào đó thực sự giác ngộ được chân đế của sự sinh tồn và cuộc sống của con người, thì tất nhiên cống hiến, phục vụ con người một cách chí công vô tư. Tự giác tự lợi vẫn là tiền đề cần thiết và chuẩn bị giác tha lợi nhân (giác ngộ cho người khác và làm lợi ích cho mọi người). Chỉ có không ngừng nâng cao giác ngộ của chính mình đối với chân đế của Phật pháp, mới có năng lực phổ độ chúng sanh, lợi lạc hữu tình. Ngược lại cũng vậy, giác tha lợi nhân là yêu cầu cần thiết của giác ngộ nhân sinh, cũng là một phần giác ngộ của tự thân mình.

Có thể thấy, Phật giáo giải đáp vấn đề quan hệ giữa con người và tự ngã là vấn đề quan hệ của con người và xã hội liên hệ chặt chẽ với nhau, phản ánh nhận thức sâu sắc của Phật giáo đối với quan hệ giữa mình và người, giữa con người và xã hội. Con người là sự thống nhất giữa tồn tại cá thể và tồn tại xã hội, nhưng thuộc tính bản chất của con người là ở tính xã hội của con người, chính vì do tính xã hội của con người đã quyết định sự khác nhau chủ yếu giữa con người và động vật. Vì vậy, bất kỳ cá nhân nào xa lìa xã hội thì không thể tồn tại, thì càng không thể nói sự hoàn thiện cuộc sống cá nhân. Ðiều này nói rõ bất kỳ ai cũng không thể chỉ lo tu dưỡng cho bản thân mình, muốn xây dựng cuộc sống cá nhân hoàn thiện, đồng thời phải tích cực xúc tiến phát triển ở người khác, tức xúc tiến sự hoàn thiện chung của toàn nhân loại, sự hoàn thiện của cuộc sống cá nhân được xây dựng trong sự tiến bộ và phát triển chung của xã hội loài người.

Duyên khởi luận của Phật giáo đã nói lên, mọi sự mọi vật trong đời đều do điều kiện nhân duyên nhất định hòa hợp mà sanh khởi, “cái này có nên cái kia có, cái này sanh nên cái kia sanh”, tất cả thế giới hiện tượng đều liên hệ với nhau, cùng dựa vào nhau mà tồn tại, quan hệ giữa con người và tự nhiên cũng là như vậy. Con người tuy là linh của vạn vật, nhưng con người và thiên nhiên, bao gồm sông, núi, cỏ, cây, chim, cá, sâu, bọ… đều dựa vào nhau mà sống, dựa vào nhau mà sinh tồn. Bảo vệ môi trường thiên nhiên, thực ra chính là đang bảo vệ mình; ngược lại, phá hoại thiên nhiên cũng chính là hủy hoại cuộc sống của chính chúng ta, không những có hại cho chính chúng ta mà còn nguy hiểm đến các đời con cháu của chúng ta. Tư tưởng từ bi bình đẳng của Phật giáo, yêu cầu chúng ta quan tâm đến tất cả chúng sanh một cách bình đẳng không phân biệt. Vì theo nghiệp thọ sanh của Phật giáo, tất cả chúng sanh trong những kiếp quá khứ đều là lục thân quyến thuộc với nhau, chỉ là đời này kiếp này do nghiệp lực quả báo khác nhau, mà có sự khác nhau là người và động vật. Lại nữa, Phật giáo cho rằng, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, trên phương diện Phật tánh, con người và động vật hoàn toàn bình đẳng, vì vậy đạo Phật khuyên không nên sát sanh, nên phóng sanh, , làm sạch môi trường, trang nghiêm quốc độ, lợi lạc hữu tình.

3. Ý nghĩa hiện đại về đạo đức Phật giáo

Ngày nay chúng ta đã bước vào thế kỷ 21, tùy theo sự phát triển rất nhanh của khoa học kỹ thuật và nâng cao trình độ công nghiệp hóa, con người đã khai thác và cướp đoạt nguồn tài nguyên thiên nhiên đã đi đến bước điên cuồng, môi trường ô nhiễm, tài nguyên cạn kiệt, đã trở thành vấn đề mang tính toàn cầu. Sự phát triển quá nhanh của nền văn minh vật chất, đã mang đến sự thay đổi đột ngột về kết cấu xã hội và phương thức sinh hoạt, gây rối thế giới tinh thần của con người, phá vỡ quy phạm đạo đức vốn có, sinh ra hàng loạt khủng hoảng giá trị và khủng hoảng tinh thần. Học thuyết luân lý Phật giáo tiềm tàng nguồn phong phú làm giảm những mâu thuẫn này, có thể vì sự hoàn thiện tự ngã của nhân loại và sự điều hòa của xã hội cùng với sự phát triển mà thực hiện cống hiến đặc biệt của đạo Phật.

Trên phương diện quan hệ giữa mình và con người, khủng hoảng giá trị và khủng hoảng tính ngưỡng tồn tại phổ biến trong xã hội hiện đại, biểu hiện nổi bật chính là mất cân bằng về tinh thần và không nhận ra chính mình. Do tiết tấu cuộc sống tăng nhanh, cạnh tranh ngày càng kịch liệt, thói quen ngày trước là dần dần từng bước, phương thức sinh hoạt đơn nhất, chỉ trong một đêm sáng dậy bị đảo lộn, thay vào đó là tin tức khủng bố, nổ bom, nghề nghiệp thay đổi, cương vị cạnh tranh nhau tuyển mộ, mất chức, tìm việc, qua một đêm giàu có đột ngột v.v… Thể chế mới mang đến cơ hội mới, đồng thời cũng mang đến những thử thách. Rất nhiều người vì vậy mà cảm thấy thần kinh căng thẳng cao độ, thân tâm mệt mỏi, lo nghĩ, nôn nóng, áp lực, bất an, gây nên trạng thái sức khỏe kém tương đối phổ biến của con người hiện nay, người nặng có thể bị bệnh tâm thần phân liệt… Trên phương diện quan hệ giữa con người và xã hội, do lạm phát cực độ về vật dục và thiếu lương tri đạo đức, rất nhiều người đi vào con đường tội phạm, thò ra một cánh tay tội ác với người khác, với xã hội, với quốc gia, rơi vào hố sâu của tội lỗi. Có người chìm đắm vào vật dục và làm nô lệ của vật dục, vì thỏa mãn lợi ích của riêng cá nhân mình mà không chọn lựa phương pháp, thậm chí trái pháp luật loạn kỷ cương, nguy hại đến xã hội; có người chỉ quan tâm đến được mất cho riêng mình, thờ ơ lãnh đạm với người khác và xã hội; có người tinh thần trống rỗng vô trách nhiệm, không có lý tưởng, không truy cầu, thậm chí không phân được thiện ác, không biết đúng sai. Trên phương diện quan hệ giữa người và thiên nhiên, khai thác và phá hoại bừa bãi nguồn tài nguyên thiên nhiên, đã gây nên kết quả xấu khó mà đổi lại được, cuối cùng có hại cho chính con người chúng ta. Sinh thái mất cân bằng, sinh động vật bị diệt chủng, môi trường bị ô nhiễm, nguồn năng lượng bị khủng hoảng, thảm thực vật bị phá hoại, hàng loạt vấn đề bày ở ngay trước mắt chúng ta.

Những hiện tượng này sinh ra, cố nhiên có nhiều nguyên nhân khách quan của nó, nhưng nguồn gốc cuối cùng vẫn là ở chính con người của chúng ta; là nhân sinh quan, giá trị quan của chúng ta có vấn đề; là nhận thức sai lạc của chúng ta đối với tự ngã, xã hội và thiên nhiên, đã mở rộng tự ngã, đã khuyếch trương tự ngã đến mức không thích hợp. Phật giáo đưa ra những quy phạm đạo đức và những phương pháp tu hành cơ bản về giác ngộ giải thoát; như Ngũ giới: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu; Thập thiện: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói lời hư vọng, không nói hai lời, không nói lời ác xấu, không nói lời thêu dệt, không tham dục, không sân hận, không tà kiến; Lục độ: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ; Tứ nhiếp: Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự; v.v… Và những nguyên tắc tiêu chuẩn luân lý: bỏ dữ làm lành, làm lành được quả lành, làm xấu ác gặp quả ác xấu… giúp giải quyết những vấn đề xã hội như thúc đẩy hoàn thiện đạo đức xã hội đời thường, tịnh hóa tâm linh, tăng trưởng trí tuệ, kiện toàn nhân cách, khắc phục tự ngã, khắc phục tinh thần vô trách nhiệm, khắc phục tham lam quá độ về vật dục… Là một liều thuốc hay để trị bệnh cho con người và xã hội hiện đại.

Giải quyết tốt đẹp mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, cá nhân và xã hội hiện ra càng thêm quan trọng ở xã hội hiện đại toàn cầu hóa, thông tin hóa. Những tư tưởng luân lý của Phật giáo như chúng sanh bình đẳng, tự lợi lợi tha, từ bi tế thế…, những quy phạm đạo đức như: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu (bao gồm cả các chất gây kích thích thần kinh như: Heroin, thuốc lá, chất có hại, cồn…), giúp ích cho việc thúc đẩy nhân loại xác lập quan hệ giữa người với người một cách hài hòa và trật tự xã hội tốt đẹp, làm hòa dịu mâu thuẫn xã hội, bình thường hóa khác biệt đẳng cấp, ngăn ngừa chiến tranh, bảo vệ hòa bình. Chỉ cần chúng ta có thể phá trừ những trói buộc của bản ngã, nhận thấy rõ bản lai diễn mục của tự ngã, tất cả những chấp trước vọng tưởng, phiền não đau khổ tất nhiên sẽ từ bỏ chúng ta mà đi, khiến bản thân mình trở thành người khỏe mạnh về thân tâm, quan tâm đến người khác và xã hội, yêu mến sự nghiệp lợi ích chung, hạnh phúc an vui. Cuộc sống như vậy chính là cuộc sống từng bước hướng tới giác ngộ bằng việc cống hiến không ngừng cho xã hội. Là cuộc sống hiện thực, cuộc sống sinh động, là cuộc sống hoàn thiện sinh mạng cá nhân và luôn kết hợp với sự hoàn thiện phổ biến của toàn nhân loại. Trên phương diện quan hệ giữa người và thiên nhiên, khái niệm chinh phục thiên nhiên không hạn chế đã bị thay thế bởi khái niệm bảo vệ môi trường và khái niệm quan hệ hài hòa giữa con người với thiên nhiên. Giáo lý duyên khởi, từ bi bình đẳng của đạo Phật và tư tưởng truy cầu cuộc sống cực lạc tịnh độ, hầu hết những người đệ tử Phật xây dựng những ngôi chùa thanh lương, trồng cây gây rừng, chính mình thực hành giới sát, phóng sanh bảo vệ động vật, duy trì cân bằng sinh thái, sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý, bảo vệ và trong sạch hóa môi trường, thống nhất nhịp nhàng giữa người thực hiện và thiên nhiên, đều có ý nghĩa hiện thực rất quan trọng.

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/01/2017(Xem: 8825)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
07/01/2017(Xem: 9546)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
27/12/2016(Xem: 12478)
Lịch sử là bài học kinh nghiệm luôn luôn có giá trị đối với mọi tư duy, nhận thức và hành hoạt trong đời sống của con người. Không có lịch sử con người sẽ không bao giờ lớn khôn, vì sao? Vì không có lịch sử thì không có sự trải nghiệm. Không có sự trải nghiệm thì không có kinh nghiệm để lớn khôn.
25/12/2016(Xem: 5196)
Theo các nhà nghiên cứu Phật học thì Đức Phật Thích ca đã dùng tiếng Magadhi để thuyết Pháp. Tiếng Magadhi là ngôn ngữ thuộc xứ Magadha ở vùng trung lưu sông Ganges (Hằng hà). Rất nhiều sắc lệnh của Đại đế Asoka được khắc trên các tảng đá lớn và các cây cột lớn được tìm thấy có thể cho chúng ta biết một phần nào về ngôn ngữ mà Đức Phật đã nói như thế nào.
22/12/2016(Xem: 23699)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 12925)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
16/07/2016(Xem: 9648)
Nếu trang phục truyền thống của một dân tộc hay quốc gia biểu đạt bản sắc văn hóa về y phục của dân tộc hay quốc gia đó, thì pháp phục Phật giáo thể hiện bản sắc đặc thù, khác hẳn với và vượt lên trên các quốc phục và thường phục của người đời, dù ở phạm vi dân tộc hay quốc gia. Lễ phục tôn giáo nói chung và pháp phục Phật giáo nói riêng thể hiện tình trạng tôn giáo và xã hội (social and religious status), được sử dụng trong hai hình thức, mặc trong sinh hoạt thường nhật và mặc trong các nghi lễ tôn giáo, nói chung các dịp đặc biệt.
24/04/2016(Xem: 30823)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
04/03/2016(Xem: 14809)
Trong thời gian làm việc tại Thư viện Thành hội Phật giáo đặt tại chùa Vĩnh Nghiêm, quận 3, tôi gặp được cuốn Tôn Giáo Học So Sánh của Pháp sư Thánh Nghiêm biên soạn. Do muốn tìm hiểu về các tôn giáo trên thế giới đã lâu mà vẫn chưa tìm ra tài liệu, nay gặp được cuốn sách này tôi rất toại ý.
04/03/2016(Xem: 11167)
Đọc sách là niềm vui của tôi từ thời còn đi học cho đến nay, chưa bao giờ ngơi nghỉ. Nếu sách hay, tôi chỉ cần đọc trong một hay hai ngày là xong một quyển sách 500 đến 600 trang. Nếu sách khó, cần phải nhiều thời gian hơn thì mỗi lần tôi đọc một ít. Còn thế nào là sách dở? xin trả lời ngắn gọn là: Sách ấy không hợp với năng khiếu của mình. Dĩ nhiên khi một người viết sách, họ phải đem cái hay nhất, cái đặc biệt nhất của mình để giới thiệu đến các độc giả khắp nơi, cho nên không thể nói là dở được. Cuối cùng thì dở hay hay tùy theo đối tượng cho cả người viết lẫn người đọc, là tác giả muốn gì và độc giả muốn học hỏi được gì nơi tác phẩm ấy. Tôi đọc Đại Tạng Kinh có ngày đến 200 trang nhưng vẫn không thấy chán, mặc dầu chỉ có chữ và chữ, chứ không có một hình ảnh nào phụ họa đi kèm theo cả. Nhiều khi nhìn thấy trời tối mà lo cho những trang Kinh còn lỡ dở chưa đọc xong, phải vội gấp Kinh lại, đúng là một điều đáng tiếc. Vì biết đâu ngày mai đọc tiếp sẽ không còn những đoạn văn hay tiếp
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567