Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhập thất - con đường tìm về ánh sáng.

09/04/201312:59(Xem: 5843)
Nhập thất - con đường tìm về ánh sáng.

Nhập thất - con đường tìm về ánh sáng

Gia Quốc

Hàng nghìn năm trước, các ẩn sĩ tu tập theo nhũng trường phái khác nhau đã xem việc sống tách biệt với môi trường bên ngoài như là một phương cách để rèn luyện tâm thức nhằm đạt được sự hiểu biết sâu xa hơn về thế giới xung quanh. Trong sự yên tĩnh và cách biệt của việc sống ẩn cư - như là hình thức “nhập thất” - nhà tu hành có thời gian tư duy và nhìn thấy những nơi sâu thẳm nhất của chân lý về sự tồn tại.

Martin Lowenthal, một bác sĩ tâm lý, giáo sư dạy thiền và là một môn đệ lâu năm của Phật giáo Tây Tạng, ông đã tu hành theo phương pháp nhập thất từ 14 năm qua. Trong cuốn sách Ánh sáng phương Đông: người phương Tây tiếp cận phương pháp nhập thất của Thiền Tây Tạng, Martin Lowenthal đã mô tả khá cặn kẽ về quá trình “nhập thất” của mình.

Kết quả của cuộc trò chuyện giữa “ẩn sĩ” Martin Lowenthal với nhà báo David Ian Miller tại văn phòng Học viện Dedicated Life Institute Newton, Massachusetts, Hoa Kỳ là một bài báo khá dài về đề tài lý thú này. Chúng tôi xin trích dịch cuộc đối thoại kể trên, để giúp bạn đọc hiểu về một con người đang dành cả cuộc đời mình cho một phương pháp tu hành độc đáo: nhập thất.

Việc nhập thất có thể giúp ta sáng tỏ vạn vật. Xin ông giải thích về vấn đề này?

Có rất nhiều câu trả lời cho vấn đề này. Một trong số đó là năng lực quan sát hàng ngày của chúng ta thường bị dao động, chi phối quá nhiều bởi những yếu tố ngoại cảnh. Thông thường, tạp niệm khởi lên không nhiều bằng những gì chúng ta tưởng tượng. Việc nhập thất không chỉ tạo cho bạn một không gian yên tĩnh, không bị ngoại cảnh chi phối, mà còn giúp cho thân tâm bạn được bình yên, tỉnh thức để tập trung tư tưởng vào những lĩnh vực cần thiết. Điều đó rất hiển nhiên. Một khi năng lực quán sát được nâng cao thì sự thật được hiển hiện.

Hàng thế kỷ qua, con người đã từng nhập thất trong hang động hay những nơi kín đáo, linh thiêng. Còn bây giờ thì người thường nhập thất ở đâu?

Tôi học được đôi chút về truyền thống của Phật giáo Tây Tạng. Những nhà sư đã xây dựng những căn phòng chuyên dành cho việc nhập thất trong các tu viện. Họ cũng xây dựng những trung tâm tu tập như thế tại Hoa Kỳ, mặc dù không nhiều. Lúc đầu tiến hành nhập thất, tôi đã chỉnh sửa một căn phòng trong nhà mình bằng cách khóa kín tất cả các cửa sổ.

Thời gian nhập thất thường kéo dài bao lâu?

Điều đó tùy thuộc vào từng người. Người Tây Tạng thường nhập thất 49 ngày. Nhưng cũng có nhiều vị nhập thất liền mấy năm. Lúc mới bắt đầu, tôi chỉ nhập thất ba ngày, rồi nâng dần lên. Sau đó, thời gian lâu nhất tôi nhập thất là một tháng, và tôi thường nhập thất ít nhất 2 tuần trong năm.

Ông làm gì trong thời gian nhập thất? Ngồi thiền suốt thời gian đó hay đi loanh quanh?

Thông thường, người ta hay buồn ngủ vì bầu không khí yên tĩnh xung quanh. Phấn đấu để vượt qua cơn buồn ngủ cũng là một phần quan trọng trong tiến trình tu tập. Khi không thể ngủ, bạn có thể ngồi thiền khoảng hai hay bốn lần mỗi ngày; tất cả những điều này phụ thuộc vào kinh nghiệm tu tập mà bạn có được. Thời gian còn lại dùng để thư giãn và suy ngẫm. Ban đầu, bạn rất nản khi làm những việc tay chân, do vậy, cơ thể bạn sẽ không có được sự năng động cần thiết. Bạn muốn mọi thứ đều lắng xuống. Nhưng con người lại luôn có xu hướng lúc căng thẳng những lúc bình yên.

Ông thực tập theo phương pháp thiền nào trong khi nhập thất?

Lúc đầu tôi tập quán sổ tức - tập trung suy nghĩ cho từng hơi thở, quan sát những gì khởi lên trong suy nghĩ, cảm xúc. Đến khi điều phục được tâm mình đến một mức độ ổn định cần thiết và có khả năng quán sát thực tại, chúng ta chuyển sang quán tưởng, tư duy về từ bi và trí tuệ. Phật giáo cho rằng Phật tính có mặt ở trong mỗi chúng sanh nhưng vì vô minh nên chúng ta không thể nhận biết. Việc nhập thất là cơ hội để chúng ta tiếp xúc với bản tâm của mình.

Và đó là thành tựu đạt được do sự tu tập, chứ không chỉ là một hình thức thư giãn?

Vâng, tôi xem đó là phương pháp để đạt đến sự tỉnh thức, và điều đó rất linh thiêng. Cũng vậy, bạn bắt đầu nhìn thấy được năng lực của ánh sáng, và những cảnh tượng thật từ trong chỗ yên tĩnh - điều mà bạn không thể thấy được khi ở bên ngoài. Bằng cách đó, tôi nghĩ, sự linh thiêng luôn hiển hiện trong suốt thời gian nhập thất của chúng ta.

Ông đã thật sự thấy được những gì?

Nhiều, rất nhiều! Đôi lúc, tôi cảm thấy mình đang đi trong một khu rừng và nhìn thấy ánh sáng xuyên qua tàng cây. Lúc khác, tôi lại cảm nhận mình đang thấy ánh sáng của cầu vồng, của vòng tròn mandala hay những bậc thầy đáng kính.

Ông có nghĩ thật sự mình đã thâm nhập vào cảnh giới mà ông đã nhìn thấy? Ông có cảm thấy phiền không, khi đó chỉ là giả tưởng, hay những gì ông thấy là thật?

Tôi không biết phải trả lời như thế nào, vì kỳ thực, tôi không quá quan tâm đến những vấn đề đó. Đối với tôi, chúng đang hiện hữu và bạn chỉ nhìn thấy những gì xuất hiện. Đôi khi, tôi cũng nghe được những âm thanh và cả việc thưởng thức những hương vị mà tôi chưa bao giờ có được.

Sống trong môi trường văn hóa của mình, chúng ta được dạy rằng, nên sợ sự trống vắng và bóng tối. Có bao giờ ông cảm thấy sợ hãi khi nhập thất?

Không! Nhưng tôi biết, con người thường hay sợ hãi. Tôi đã từng có những cảm giác khác nhau khi nhập thất, và nói chung, tôi không thấy có vấn đề gì. Vấn đề quan trọng là ở chỗ, không nên quan tâm đến những phản ứng của nỗi sợ hãi.

Ý ông muốn nói gì?

Đó là những xung lượng của não bộ, muốn chúng ta suy nghĩ về mọi thứ và tinh thần quyết tâm tạo cho chúng ta động lực tìm ra con đường, giữ cho chúng ta thức tỉnh trước sự cám dỗ của mọi thứ xung quanh. Khi thư giãn, chúng ta không cần ai động viên. Khi ở trong thất, tựa như được an toàn như ở trong bào thai mẹ.

Nhân duyên nào dẫn ông chọn phương pháp nhập thất?

Một vị sư Tây Tạng mà tôi quen biết, ngài Lon Gil Rinpoche, đã nói chuyện với tôi rất nhiều ở Boston; ngài giảng giải cho tôi nhiều về công dụng của việc nhập thất. Từ đó, tôi quyết định tạo cho mình một không gian riêng để nhập thất tu tập.

Ông lớn lên ở San Francisco. Vậy ông đã theo một tôn giáo nào chưa?

Gia đình tôi theo đạo Do Thái, thế nhưng họ cũng không cực đoan cho lắm, mặc dù ông nội tôi là một người mộ đạo Do Thái chính thống. Khi vừa trưởng thành, tôi bắt đầu đọc sách Phật và đọc rất nhiều. Đến khi bắt đầu cảm nhận được sự thôi thúc của nội tâm, tôi quyết định theo Phật giáo.

Theo ông, điều gì quan trọng nhất một người muốn nhập thất cần biết?

Tôi nghĩ, điều quan trọng nhất là anh phải biết giá trị tinh túy nhất của việc sống thư thái. Chúng ta hay nghĩ về sự thư thái, bằng cách nào đó, như là sống với tiềm thức, và như vậy, sống thư thái và hoàn toàn minh mẫn với cái nhìn sáng suốt về thực tại. Một vấn đề khác mà bạn có thể khám phá nhanh chóng là bạn đang suy tư như thế nào, bởi vì bất cứ dòng suy nghĩ nào khởi lên cũng đều được sinh ra từ thói quen suy tư hàng ngày của chúng ta. Nắm bắt được điều đó, ta tạo được lối suy tư mới và cảm nhận được sự vận động rất thực bằng cách chú tâm vào những gì đang biến động trong đời sống xung quanh chúng ta.

Ông có cho rằng những gì mình đang làm đều là sự thực hành hướng đến tâm linh, trong đó có cả việc nhập thất?

Rõ ràng như thế! Sau một thời gian tu tập theo nhiều truyền thống tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, tôi đã theo Phật giáo và hòa nhập hoàn toàn vào đời sống của Phật giáo. Vì thế, thiền định chẳng hạn, không đơn thuần chỉ khi bạn ngồi trên bồ đoàn hay khi bạn đang tụng kinh, mà là ngay lúc này, khi chúng ta đang trò chuyện. Một điều quan trọng trong Phật giáo là sự hữu ích trong hiện tại. Đây không chỉ là vấn đề của nội tâm hay khái niệm học thuật mà là con đường sống và tu tập cho bạn, cho tất cả mọi người.

Theo ông, làm thế nào để tiếp cận được với những ý tưởng đó?

Tôi đang thực hiện, và đó sẽ là công việc của tôi suốt cuộc đời này.

Xin cảm ơn ông!

(Theo Special to SF Gate, March 20, 2006)

---o0o---

Nguồn: Giác Ngộ

Trình bày: Nhị Tường


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/10/2014(Xem: 14326)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
20/10/2014(Xem: 33528)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ và những khai triển của Trung Hoa. Người Ấn vốn có thái độ coi thường lịch sử; “bởi vì chư thiên yêu thương cái gì tăm tối”*, họ đẩy tất cả những gì xảy ra lui vào bóng tối mịt mù của thần thoại. Riêng Phật tử Ấn cổ thời, với lý tưởng cứu cánh là Niết Bàn, mọi biến cố lịch sử cũng không bận tâm cho lắm. Ngược lại, người Trung Hoa có thái độ lịch sử một cách xác thiết.
17/10/2014(Xem: 9891)
Sợ hãi và lo âu là sản phẩm tưởng tượng của tâm bị ảnh hưởng bởi những điều kiện ở thế giới bên ngoài. Chúng có gốc rễ từ tham và bám víu. Thực ra, cuộc sống giống như một cuốn phim đang diễn ra, trong đó mọi thứ đều luôn chuyển động và thay đổi. Không có gì trong cõi đời này là thường hằng hay bất biến. Những người trẻ tuổi, khỏe mạnh thì sợ chết yểu. Người già yếu thì lo âu phải kéo dài kiếp sống. Giữa hai nhóm người này là những kẻ ước muốn sống vui vẻ cả đời. Những tham vọng đầy hào hứng về lạc thú thế gian dường như qua đi quá nhanh. Những ước đoán đầy sợ hãi về những điều bất an tạo nên sự lo âu thì dường như không bao giờ chấm dứt. Các cảm xúc đó cũng tự nhiên thôi. Những thăng trầm của cuộc sống đùa giỡn với ngã tưởng của ta, xem nó như một con rối trên sợi dây kéo, nhưng tâm ta thì bản chất của nó là siêu việt. Sự rèn luyện tâm, còn được biết đến như là văn hóa tâm linh, là bước đầu tiên tiến đến việc huấn luyện tâm bất ổn định. Đức Phật đã dạy, Ái sinh ra k
18/08/2014(Xem: 59113)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay. Thật vậy tư tưởng của Ngài có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muôn thú và tàn phá thiên nhiên. Phật giáo thường được coi như là một tín ngưỡng nhưng những lời khuyên của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong quyển sách này vượt lên trên khuôn khổ hạn hẹp của một tôn giáo: - "Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo (câu 87).
16/06/2014(Xem: 8360)
sanh trưởng trong một gia đình trí thức thượng lưu bên Pháp. Năm 20 tuổi, ông bỏ nhà sang Ấn Độ tu học Phật pháp dưới sự hướng dẫn của các thiền sư Tây Tạng, trong đó có Kangyur Rimpotché, sau này là sư phụ của ông. Đồng thời ông bắt đầu một luận án tiến sỹ về di tính tế bào. Về Pháp tiếp tục trong phòng thí nghiệm của François Jabob, ông trình luận án năm 1972. Sau đó, ông trở lại Ấn Độ theo học Phật pháp, tu hành, viết sách và tham gia xây dựng rất nhiều công trình từ thiện cho tới bây giờ. Nhờ sống bên Ấn Độ, ông rất thạo tiếng Tây Tạng và gần đây hay theo Đức Đạt Lai Lạt Ma dịch các diễn văn của Ngài sang tiếng Pháp.
14/05/2014(Xem: 8433)
Bài viết dưới đây được dịch từ một bản tiếng Pháp mang tựa là Compassion, medecin insurpassable (Lòng Từ Bi, một vị lương y vô song) của một học giả Phật Giáo rất uyên bác là bà Sofia Stril-Rever. Bài viết này được đăng trên tập san Dharma số 46 (tháng 10, 2003) với chủ đề Compassion et Médecine (Từ Bi và Y Khoa), độc giả cũng có thể tra cứu bài viết này trên mạng internet tại : http://www.buddhaline.net/La-compassion-une-energie-de Bài chuyển ngữ này là một trong loạt những bài với chủ đề "Quan điểm của Phật Giáo đối với sự đau đớn và bệnh tật". Các bài khác đã được phổ biến là: - Đức Phật thuyết giảng về sự đau đớn (Kinh Sallatha Sutta) - Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn (Kinh Sakalika Sutta) - Giáo huấn của Đức Phật về sự đau đớn và khổ đau (Rich Heller) - Thái độ của người Phật Giáo về sự đau đớn (Ajahn Brahmavamso Mahathera) - Cái chết là một thứ bệnh ung thư (Ajahn Liem) - Y khoa cũn
22/04/2014(Xem: 7966)
Một trong những nền tảng quan trọng của đạo đức Phật giáo là tuân theo tinh thần bất bạo động. Mục đích của tôi trong bài viết sau đây là trình bày những ảnh hưởng của lời nguyện ước này trong mối quan hệ với việc đối xử với phạm nhân. Chấp nhận trừng phạt có liên hệ đến chủ tâm bắt phạm nhân phải chịu thiệt hại, tôi lập luận rằng cách áp dụng trừng phạt là không phù hợp với nguyên tắc bất bạo động
26/03/2014(Xem: 6018)
Qua sự phát triển một thái độ trách nhiệm đối với người khác, chúng ta có thể khởi đầu thiết lập một thế giới thân ái và từ bi hơn mà tất cả chúng ta hằng mơ ước. Độc giả có thể đồng ý hay không sự ủng hộ của tôi về trách nhiệm toàn cầu.
12/03/2014(Xem: 28508)
Nghi thức Thọ Trì Đại Bi Sám Pháp (giọng tụng: TT Thích Nguyên Tạng) Kính lạy đời quá khứ Chánh Pháp Minh Như Lai Chính là đời hiện nay Quán Thế Âm Bồ tát Bậc thành công đức diệu Dũ lòng đại từ bi Nơi trong một thân tâm Hiện ra ngàn tay mắt
12/03/2014(Xem: 25173)
Trong một cuộc đàm thoại giữa thính chúng thuộc nhiều thành phân xã hội, là nhà truyền thông, nhà giáo dục, chính khách…Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trả lời các câu hỏi về nhiều vấn đề đời sống xã hội của người tham dự một cách thẳng thắn và có duyên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]